Tuần san                                                                              

www.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.comTIN VUIFlowchart: Document: Số 
165
30/11/2008

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

MỤC LỤC

 

 TOC \o "1-3" \h \z \u SỐNG LỜI CHÚA.. PAGEREF _Toc215756165 \h 2

Chúa Nhật I Mùa Vọng B.. PAGEREF _Toc215756166 \h 2

CHỜ ĐỢI MỘT CÁCH SỐNG ĐỘNG.. PAGEREF _Toc215756167 \h 2

TU ĐỨC.. PAGEREF _Toc215756168 \h 4

ĐƯỢC ĐÓN NHẬN VÀ ĐÓN NHẬN.. PAGEREF _Toc215756169 \h 4

LÀM CHỨNG CHO CHÚA GIÊSU.. PAGEREF _Toc215756170 \h 6

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI. PAGEREF _Toc215756171 \h 8

188 tân chân phước tử vì đạo của Giáo Hội Công Giáo Nhật Bản. PAGEREF _Toc215756172 \h 8

Cảm xúc nhân dịp đi dự lễ phong chân phước cho 188 vị tử đạo Nhật Bản. PAGEREF _Toc215756173 \h 11

HÀN QUỐC: Chương trình đọc và chia sẻ Kinh Thánh online thay đổi đời sống của người Công giáo. PAGEREF _Toc215756174 \h 14

Đức Thánh Cha chào mừng phái đoàn của Đức Thượng phụ Arméni Tông truyền. PAGEREF _Toc215756175 \h 15

PAKISTAN: Trung tâm Phục hồi Caritas giúp các phụ nữ khiếm thị PAGEREF _Toc215756176 \h 16

Đức giáo hoàng tham khảo với các giám mục về việc thay đổi một nghi thức trong thánh lễ. PAGEREF _Toc215756177 \h 17

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các Hàn lâm viện Tòa Thánh. PAGEREF _Toc215756178 \h 18

Đức Thánh Cha chỉ định một giáo dân Hàn Quốc làm kiểm toán viên cho Toà Thánh. PAGEREF _Toc215756179 \h 18

Đức Thánh Cha đau buồn vì các vụ tấn công tại Mumbai PAGEREF _Toc215756180 \h 20

Sri Lanka: Giáo Hội giúp giới trẻ miền duyên hải cai rượu và ma túy. PAGEREF _Toc215756181 \h 20

Đức TGM Hà Nội và LM Tổng Thư ký UBBAXH thăm bà con vùng lũ trong TGP Hà Nội PAGEREF _Toc215756182 \h 22

Giáo xứ Phú Trung (Sài gòn) Mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam.. PAGEREF _Toc215756183 \h 24

GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM... PAGEREF _Toc215756184 \h 26

KỶ NIỆM NGÀY THIẾT LẬP HÀNG GIÁO PHẨM VIỆT NAM... PAGEREF _Toc215756185 \h 26

Nhớ Nguyễn Trường Tộ nhân kỷ niệm 180 năm ngày sinh của Tiên sinh (1828-2008) PAGEREF _Toc215756186 \h 26

ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ CÁC GIÁO PHẬN MIỀN BẮC GIÁO TỈNH HÀ NỘI 2008. PAGEREF _Toc215756187 \h 29

Thông báo về ngày Đại Lễ Khai Mạc Năm Thánh Đức Mẹ TàPao. PAGEREF _Toc215756188 \h 31

Hội Bác Ái giáo xứ Thánh Tâm giáo phận Banmêthuột kỷ niêm 20 năm ngày thành lập  (1988-2008) PAGEREF _Toc215756189 \h 32

Những hoạt động mừng lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam tại Huế. PAGEREF _Toc215756190 \h 33

Thánh lễ cầu nguyện cho việc bảo vệ sự sống tại Hải Phòng. PAGEREF _Toc215756191 \h 35

Giáo họ Tràng Tiền (Nam Định) mừng lễ Cách Thánh Tử Đạo. PAGEREF _Toc215756192 \h 36

Làng phong Tam Hiệp: Bốn mươi năm nghĩa tình. PAGEREF _Toc215756193 \h 38

Nhóm Bác Ái: 'Tình thương mến thương' viếng Đất Thánh Đồng Nhi PAGEREF _Toc215756194 \h 40

Thánh lễ trao ban thừa tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ tại ĐCV Sao Biển Nha Trang. PAGEREF _Toc215756195 \h 40

Di sản tinh thần của Cha Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa: Tử đạo hôm nay là sống đời yêu thương bác ái PAGEREF _Toc215756196 \h 41

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO.. PAGEREF _Toc215756197 \h 45

Lời Chủ Chăn tháng 12.2008. PAGEREF _Toc215756198 \h 45

Giáo dục kitô giáo và công cuộc phát triển đất nước. PAGEREF _Toc215756199 \h 45

THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ : CUỘC ĐỜI VÀ TIẾNG GỌI. PAGEREF _Toc215756200 \h 48

FATIMA VÀ NHỮNG LỜI CẢNH BÁO RÙNG RỢN. PAGEREF _Toc215756201 \h 54

Nước mắt chảy xuôi. PAGEREF _Toc215756202 \h 57

HÃY TỈNH THỨC.. PAGEREF _Toc215756203 \h 60

TÌNH YÊU -HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH.. PAGEREF _Toc215756204 \h 62

CON CÁI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA.. PAGEREF _Toc215756205 \h 62

Bệnh ở mũi và cách xử trí PAGEREF _Toc215756206 \h 64

ĐỌC SÁCH.. PAGEREF _Toc215756207 \h 65

CHẾT. PAGEREF _Toc215756208 \h 65

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật I Mùa Vọng B

PHÚC ÂM: Mc 13, 33-37

"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!" Đó là lời Chúa.

CHỜ ĐỢI MỘT CÁCH SỐNG ĐỘNG

 

Cũng như hết thu sang đông, sau Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Dường như chu kỳ Phụng vụ này đều được người công giáo thuộc nằm lòng. Hơn thế nữa, chúng ta còn biết Mùa Vọng là thờì gian tỉnh thức và chờ đợi.

 

Nhưng tại sao phải tỉnh thức ?Và phải chờ đợi điều gì ? Tin Mừng ngày Chúa Nhật hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.

 

Bài Tin Mừng Mc 13,33-37 là một ví dụ được Chúa Giêsu dùng để giải thích cho câu hỏi của các Tông đồ : “Khi nào ngày cánh chung sẽ xảy ra ?” (Mc 13,4). Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời : “Việc ấy chỉ mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32); mặc dù Đấng sẽ đến trong vinh quang trong ngày cánh chung đó chính là Ngài (x. Mc 13, 25) , và hình bóng này cũng đã được tiên tri Đanien loan báo : Đấng sẽ ngự giá mây trời mà đến. Ngài sẽ thống trị đến muôn đời (x.Đn 7, 13-14).

 

Hãy tỉnh thức”! Đoạn Tin Mừng chỉ vỏn vẹn có năm câu (33-37), nhưng những từ này được lặp đi lặp lại đến bốn lần, chứng tỏ mệnh lệnh này rất quan trọng. Hơn nữa, những từ “hãy tỉnh thức’ thường được chúng ta dùng để nói đến buổi tối. Nhưng ở đây Chúa Giêsu, theo Tin Mừng Máccô, nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức luôn luôn :“Cho dù là lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay rạng sáng” (Mc 13, 35). Những thời điểm này nhắc nhở chúng ta rằng : bất cứ giờ phút nào trong ngày, chúng ta cũng có thể sa ngã, cũng có thể ngủ quên. Kinh Thánh gợi cho chúng ta nhớ lại những hình ảnh của sự mê ngủ đó : buổi chiều bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã báo trước việc Giuđa sẽ phản bội Ngài (x. Mc 14, 17-31) ; vào lúc nửa đêm, Giuđa đã nộp Thầy mình bằng một nụ hôn, và đồng thời các Tông đồ đã bỏ Thầy mà trốn chạy (x.Mc 14, 32-50);  và khi trời vừa tảng sáng, Phêrô đã chối Thầy mình đến ba lần (x. Mc 14, 66-72). Thế đó, các Tông đồ là những người thân tín với Chúa Giêus trong suốt ba năm hoạt động công khai, vậy mà chỉ trong vài giờ đồng hồ đã phạm lỗi. Như vậy ai trong chúng ta có thể tự hào rằng mình sẽ không vấp ngã và sẽ luôn tỉnh thức ?

 

Nhưng tỉnh thức để làm gì, nếu không phải là để chờ đợi một điều gì đó, một Người nào đó. Dường như “chờ đợi” là thói quen của chúng ta và ai cũng có kinh nghiệm này, chẳng hạn như : chờ mẹ đi chợ về, chờ xe bus, xe lửa, chờ thư từ, chờ bạn bè, bạn hàng, chờ người mình yêu.Và trong những lúc chờ đợi đó,  nếu cảm thấy thời gian còn lâu, chúng ta thường tìm môt việc gì đó để làm : đọc một tờ báo hay những bản quảng cáo, đọc một cuốn truyện hay xem một bộ phim, hoặc làm quen và nói chuyện với người ngồi bên cạnh, và chúng ta cũng có thể vừa chờ vừa ngủ nữa…đôi lúc chúng ta cảm thấy sốt ruột, mất kiên nhẫn và mong thời gian trôi nhanh hơn. Trái hẳn với những sự chờ đợi trên, thánh Phaolô gợi cho chúng ta một hình ảnh khác, đó là hình ảnh người phụ nữ đang mang thai (x.Rm 8, 18-27). Thật vậy, vớí người phụ nữ đang mang thai sự chờ đợi sẽ không thụ động; nhưng bằng mọi cách, bà sẽ để thời gian mang thai đem lại thật nhiều ích lợi cho đứa con tương lai của mình. Vì bà hiểu rằng : từng hạt gạo, giọt nước, từng miếng thịt, cọng rau, từng cách ngồì, bước đi…tất cả đều có ảnh hưởng trên thai nhi. Và nếu có thể được, bà sẽ tránh tất cả những gì có hại đến đứa con của mình, chỉ mong cậu bé ấy hay cô bé ấy sẽ thật bụ bẫm, thật dễ thương…

 

Chờ đợi một cách sống động và trong tinh thần trách nhiệm, đó là sự cộng tác của mỗi một người chúng ta vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Đấng quyền năng, nhưng đã không muốn thực hiện chương trình ấy một mình, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta. Thậy vâỵ, Thiên Chúa đã tin tưởng và trao phó cho mỗi người chúng ta một công việc. Chúng ta phải chu toàn và lãnh lấy trách nhiệm trước mặt Ngài (x.Mc 13, 34). Cho dù công việc đó là nội trợ hay giữ cửa, nhân viên hay giám đốc, thầy giáo hay học trò…tất cả đều quan trọng đối với Thiên Chúa và chương trình của Ngài.

 

Vậy, mỗi khi chúng ta sống trọn vẹn giây phút hiện tại với bổn phận được giao phó : chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của mình, đối với người thân yêu của mình ; vợ chồng, con cái, cháu chắt, anh chị em ;  trách nhiệm trong công ăn việc làm, trong giáo hội, giáo xứ hay trong khu phố mình đang sống…là chúng ta đang tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến cách đúng nghĩa nhất.

 

Mong rằng Mùa Vọng năm 2008 này sẽ là dịp để mỗi người chúng ta xem và xét lại những hoạt động của mình, để khi Chủ trở về, chúng ta sẽ sung sướng với phần thường mà Ngài đã dành cho chúng ta (x.Mt 25, 34)

 

Nữ tu Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

ĐƯỢC ĐÓN NHẬN VÀ ĐÓN NHẬN

Người môn đệ Chúa,lúc về già, thường hay hồi tưởng. Hồi tưởng nhiều nhất thường về các liên đới : Cho đi, được đón nhận và đón nhận.

 

Riêng tôi, tôi thấy được đón nhận và đón nhận là nổỉ nhất.

 

1/ Được đón nhận và đón nhận, khi kẻ được sai đến là bất xứng

 

Khi được sai đến giáo phận Long Xuyên với chức vụ mới (30.4.1975), tôi còn khá trẻ. Nhưng tuổi trẻ không hẳn là vấn đề. Vấn đề là ở chỗ khác.

 

Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô : “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy” (1Cr 2, 2). Còn tôi, tôi run rẩy và sợ sệt, không những vì yếu kém, mà còn vì quá bất xứng.

 

Một hình ảnh về bất xứng được vua Đavít nêu lên để nói về chính mình : “Con chỉ là sâu bọ, chứ không là người. Con bị người mắng chửi dể duôi.Thấy con ai cũng chê cười”.( Tv  22, 7-8).

 

Tuy nhiên, vẫn có những người đón nhận kẻ được sai đến, dù kẻ đó là ai, dù kẻ đó thế nào. Sự đón nhận như thế đã cho tôi một lẽ sống. Lẽ sống là thấy mình được khích lệ. Khích lệ, cho dù nhỏ mà thật, vẫn giúp đời mình vui sống. Vui sống nhất là tay trong tay đi về hướng phục vụ. Phục vụ con người và phục vụ Chúa.

 

Trong nhận thức đó, phục vụ thường xuyên nhất là khao khát cho mọi người biết thương yêu nhau. Thương yêu nhau bằng những liên hệ rất thường. Một cái nhìn, một lời nói, khi mang sự cho đi chính mình, một cách chân thành, sẽ rất quý đối vớí kẻ được nhận lẫn đối vớí kẻ cho đi. Nó cũng rất quý để đổi mới xã hội và Giáo hội.

 

Tôi đã được đón nhận như thế. Sự được đón nhận ấy được tôi đón nhận với lòng cảm ơn vô vàn.

 

Tâm tình cảm tạ dừng lại lâu hơn ở một lời Chúa Giêsu đã dặn dò : “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”(Ga 13, 34).

 

Hơn bao giờ hết, lời Chúa Giêsu trên đây đã trở nên cấp bách. Vì lúc đó là lúc mới kết thúc chiến tranh. Bấy giờ yêu thương nhau phải coi là thuốc băng bó các vết thương tâm hồn. Nếu yêu thương nhau không bao giờ được chỉ là trừu tượng, thì để chữa các tâm hồn, nó phải rất cụ thể. Nó phải cảm thấy được. Nó phải rất thật, từ trong tâm hồn đến từng chi tiết nhỏ của thân xác.

 

Trên thực tế, thực hiện yêu thương lúc đó là điều rất khó. Rất khó mà vẫn phải thực hiện. Vì đó là sứ mệnh của Chúa Giêsu, một sứ mệnh Phúc Âm, một sứ mệnh truyền giáo, một sứ mệnh để làm chứng cho Chúa Giêsu.

 

Với ý thức đó, khi chúng tôi đón nhận nhau và đón nhận “giới răn mới của Chúa” (Ga 13, 34), chúng tôi tập trung vào sự cầu nguyện. Cầu nguyện như một đợi chờ lời Chúa hứa, cầu nguyện như một niềm tin vào Chúa Giêsu đã chết và đã phục sinh.

 

Chúa đã đến. Chúng tôi đã đón nhận Người. Người đã đón nhận chúng tôi.

 

2/ Được đón nhận và đón nhận Chúa Cứu Thế đến với một thực tế khác.

 

Tình hình bấy giờ đã hoàn toàn đổi mới. Chúng tôi bỏ mọi sự, chỉ giữ lại đức tin. Đức tin lúc đó được thanh luyện.Nên sẵn sàng đón nhận Chúa Giêsu y như  Phúc Âm giới thiệu.

 

a/ Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường

 

 Phúc Âm ghi lại lời Chúa sau đây : “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Thầy, vì Thầy có lòng hiều hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy thì êm ái, và gánh Thầy thì nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-30).

 

Đúng là Chúa Giêsu đã đến vớí chúng tôi như Đấng hiền lành và khiêm nhường. Chúng tôi để gánh nặng chúng tôi trên lòng Người. Và chúng tôi tự nhiên cũng được Người chia sẻ cho sự hiền lành và khiêm nhường của Người. Lúc đó, chúng tôi cảm nghiệm được một Đấng Cứu Thế đang phục vụ chúng tôi. Người đưa chúng tôi vào một sự sống mới. Sự sống mới đó làm cho chúng tôi được nhẹ nhàng.

 

b/ Đức Giêsu khó nghèo, chỉ tìm vâng phục thánh ý Chúa Cha để cứu nhân loại.

 

Hoàn cảnh lúc đó là khó nghèo. Mọi thứ của cải và địa vị đều xa vắng trong cuộc sống chứng nhân Tin Mừng. Chính trong hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã đến trong hình thức nghèo khó. Gặp Người, chúng tôi thấy rất gần gũi với Người. Người trở nên giống chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy giống như Người. Điều quan trọng chúng tôi nhận ra lúc đó là sống thực thi thánh ý Chúa. Thánh ý Người rất khác ý con người.

 

Thánh ý Chúa được tỏ bày là : Chúng tôi hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống nghèo như Chúa Giêsu và lo phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu.

 

Liên đới với lớp người nghèo khổ chính là ý nghĩa đời sống của người môn đệ Đức Kitô.

 

Đó cũng sẽ là làm chứng cho sự tự do đích thực của người môn đệ Đức Kitô.

 

3/ Được đón nhận và đón nhận một Hội thánh địa phương vớí một hình thức mới

 

Hình thức mới, đó là một Hội Thánh khiêm tốn, khó nghèo và phụ vụ những người nghèo khổ. Với hình thức đó, Hội Thánh sẽ rao giảng Tin Mừng kiểu mới. Tin Mừng là chính Đức Giêsu thành Nadarét khó nghèo, yêu thương. Liên hệ giữa Hội Thánh địa phương vớí lớp người nghèo khổ sẽ là một ý nghĩa thiết thực của Hội Thánh. Hội Thánh nghèo rao giảng Tin Mừng bằng những phương tiện nghèo.

 

Hội Thánh địa phương đón nhận ý nghĩa mới đó, với niềm xác tín rằng : Liên hệ với lớp người nghèo khổ cũng là thể hiện liên hệ của mình với Chúa Giêsu. Cùng với Hội Thánh địa phương như thế, người môn đệ Chúa Giêsu sẽ ưu tiên chọn những hình thức phục vụ bé nhỏ, thầm lặng. Phục vụ như người đồng hành và như “người đầy tớ”  (Lc  17, 10).

 

Khi phục vụ như thế, người môn đệ Chúa cảm thấy mình và Hội Thánh địa phương dễ được đón nhận bởi những người xa lạ với đạo Chúa, thậm chí ác cảm vớí đạo Chúa.

 

 

Hồi tưởng trên đây, dù vắn, vẫn đưa tôi tới tâm tình cảm tạ. Xin tạ ơn Chúa đã chỉ cho tôi một hướng đi cho một thời. Xin cảm ơn mọi người đã cùng nhau cộng tác. Trong cảm tạ có sám hối chân thành vì bao yếu đuối. Từ đây là những hơi thở phó thác : “Lạy Cha, con xin dâng phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).

 

ĐGM. GB Bùi Tuần 

Mục lục

LÀM CHỨNG CHO CHÚA GIÊSU

 

Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người một điều tâm huyết: "Các con sẽ là chứng nhân của Thầy... cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

 

Đó là lời sai đi. Mọi người tin theo Chúa phải đón nhận lời sai đi ấy như một cách giữ đạo. Phải giữ đạo Chúa cách nào để cách đó làm chứng tốt nhất cho Thiên Chúa là tình yêu.


Tất nhiên cách giữ đạo hợp lý nhất để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu là sống bác ái. Hợp lý vì tất cả đều có cơ sở Lời Chúa.

 

1/ Lời Chúa hướng dẫn chọn lựa


Người tín hữu xin dứt khoát chọn đời sống bác ái để làm chứng cho Chúa. Vì lời Chúa đã rất rõ ràng. Chỉ xin trích vài lời:


a) Chúa phán: "Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy ở điều này: là các con có lòng thương yêu nhau" (Ga 13,35).

 

b) Chúa gọi: "Hãy đến đây. Hỡi những kẻ Cha Thầy chúc phúc. Vì Thầy đau yếu, các con đã viếng thăm... Thầy bảo thật các con: Điều gì các con làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy là các con đã làm cho chính Thầy vậy" (Mt 25, 34.36.40).

 

c) Thánh Gioan dặn dò: "Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,7-8).


Những lời Kinh Thánh trên đây giúp chúng ta an tâm, khi chọn đời sống bác ái như một cách giữ đạo có sức làm chứng cho Chúa.

 

Nói là giúp cho chúng ta an tâm khi chọn lựa con đường bác ái. Bởi vì luôn có những lôi cuốn giục chúng ta muốn chọn lựa những con đường khác. Như chọn làm chứng bằng những quy tụ đông đảo, bằng cơ sở tôn giáo hoành tráng, bằng cơ cấu chặt chẽ, bằng lễ hội tưng bừng. Tất nhiên những chọn lựa đó cũng có lý của nó. Nhưng không thay thế được con đường bác ái yêu thương.

 

Tất nhiên không phải yêu thương nào cũng là bác ái làm chứng cho Chúa. Chỉ có thứ nội dung yêu thương đã được lời Chúa chỉ dạy. Vắn tắt như sau:

 

2/ Lời Chúa chỉ dẫn nội dung


a) "Bác ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.

 

"Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13,4-7).


b) "Lòng bác ái không được giả hình giả dối. Anh em hãy ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành không trễ nải, lấy tinh thần mà phục vụ Chúa.

 

"Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với các thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.

 

"Hãy chúc lành cho những kẻ bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng chúc dữ, nguyền rủa. Vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.

 

"Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác... Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với nhau" (Rm 9-18)

 

Những lời Kinh Thánh trên đây về nội dung yêu thương cho thấy một nội tâm sâu xa phong phú. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy con đường bác ái để làm chứng cho Chúa không đơn giản chỉ là vấn đề chia sẻ, phục vụ về vật chất, mà còn là một chiều kích nội tâm thiêng liêng. Chiều kích thiêng liêng đó là một nguồn sống thiêng liêng có sức biến đổi con người và xã hội.


Một nội dung yêu thương bác ái như thế là một thực tế không dễ dàng.

 

3/ Lời Chúa hé mở một thực tế không dễ dàng


Sống bác ái yêu thương với nội dung đặt nặng về nội tâm đòi nhiều phấn đấu, nhiều từ bỏ, phải đi vào cửa hẹp.

 

Chúa Giêsu phán: "Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24).
Đòi hỏi đó là đi vào cửa hẹp. Nhưng, đi vào cửa hẹp là điều không dễ. Chúa phán: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Maisen và lời các ngôn sứ là thế.

 

"Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy" (Mt 7,12-14).
Lời Chúa trên đây hé mở cho thấy một thực tế không dễ dàng. Thực tế là nhân loại luôn đợi chờ một đời sống yêu thương bác ái của người công giáo, như đợi chờ một kho tàng phong phú, đầy sức hấp dẫn. Họ đợi chờ như khao khát một sức thiêng giải cứu họ cho khỏi những ích kỷ, giả dối và ghen ghét trên đời này.

 

Nhưng xem ra họ chưa tìm được nhiều như lòng mong ước. Họ chỉ dám thầm mong: Ước chi mọi người công giáo sống thực sự yêu thương bác ái như Chúa Giêsu. Ước chi không có khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tế về bác ái yêu thương nơi các cộng đoàn công giáo.

 

Chúng ta cảm tạ Chúa vì nhiều người công giáo chúng ta đã và đang cố gắng đáp ứng những "ước chi" đó.

 

Chúng ta ngợi khen Chúa vì bao sự lạ lùng Chúa đã và đang làm nơi những chứng nhân bác ái tại Việt Nam hôm nay. Đức tin của họ được phiên dịch ra bác ái. Ngôn ngữ bác ái được coi là dễ hiểu và có sức truyền giáo đối với mọi người.

 

ĐGM. GB Bùi Tuần 

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

188 tân chân phước tử vì đạo của Giáo Hội Công Giáo Nhật Bản

 

Một số nhận định của Đức Cha Mitsuaki Takami, Tổng Giám Mục Nagasaki và của Đức Hồng Y José Saraiva Martins, nguyên Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, về chứng tá của 188 vị tử vì đạo Nhật Bản


Sáng ngày 24-11-2008, Đức Hồng Y José Saraiva Martins, nguyên Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đặc sứ của Đức Thánh Cha, đã chủ sự thánh lễ tôn phong chân phước cho 188 vị tử đạo Nhật Bản, tại vận động trường đấu banh bầu dục ở Nagasaki bên Nhật Bản.


Đứng đầu danh sách 188 vị tử đạo là cha Phêrô Kassui Kibe, dòng Tên, 3 Linh Mục khác và 184 giáo dân, trong đó có 60 phụ nữ, 33 thanh thiếu niên dưới 20 tuổi và 18 trẻ em dưới 5 tuổi. Vị tử đạo trẻ nhất là Ignatio 1 tuổi, 2 em Regina và Benedetto 2 tuổi, có 7 em khác 3 tuổi. Người lớn tuổi nhất là bà Madalena Hayashida 68 tuổi. Trong số các vị tử đạo cũng có vài người là các Samurai. Các vị đã bị giết giữa các năm 1603-1639.

Tham dự thánh lễ phong chân phước cũng có phái đoàn công giáo Việt Nam, do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sài Sòn, hướng dẫn. Ngoài Đức Hồng Y còn có Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, Giám Mục Phú Cường, Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám Mục Mỹ Tho, 3 Linh Mục và hai giáo dân.


Giáo Hội Công Giáo Nhật Bản hiện có 450 ngàn tín hữu trên tổng số 127 triệu dân. Tuy con số ít ỏi, nhưng Giáo Hội nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nhờ các trường học, nhà thương và các hoạt động bác ái xã hội do Giáo Hội điều khiển. Giáo phận Nagasaki là cộng đoàn công giáo cổ xưa nhất Nhật Bản. Tuy số giáo dân đứng hàng thứ hai sau Tokyo, nhưng Nagasaki có đông linh mục nhất, với 100 linh mục giáo phận, và 40 linh mục dòng. Giáo phận cũng cử các linh mục đến làm việc trong các giáo phận khác. Tiểu chủng viện của tổng giáo phận Nagasaki có 25 chủng sinh, trong đó có 16 chú gốc Nagasaki. Đây cũng là tiểu chủng viện duy nhất tại Nhật Bản.


Sau chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Gioan Phaolô II hồi năm 1981 Giáo Hội được người dân Nhật chú ý nhiều hơn, và có rất nhiều cặp vợ chồng trẻ xin phép được làm đám cưới trong các nhà thờ công giáo.


Sau đây chúng tôi gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Cha Mitsuaki Takami, Tổng Giám Mục Nagasaki và của Đức Hồng Y José Saraiva Martins, nguyên Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, về chứng tá của 188 thánh tử đạo Nhật Bản.


Hỏi: Thưa Đức Cha Takami, lễ phong chân phước đã tới sau một lộ trình kéo dài nhiều năm. Đâu đã là các giai đoạn của lộ trình này thưa Đức Cha?


Đáp: Sự dấn thân cho việc phong chân phước cho 188 vị tử đạo Nhật Bản đã bắt đầu với chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Gioan Phaolô II hồi năm 1981. Trong khi chuẩn bị cho chuyến viếng thăm này của Đức Gioan Phaolô II Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo đã gặp Linh Mục Diego Yuki, hồi đó là Giám đốc viện bảo tàng của 26 vị tử đạo. Năm sau đó Hội Đồng Giám Mục Nhật Bản đã thành lập Ủy ban đặc trách việc xin phong chân phước cho 188 vị tử đạo nói trên. Ủy ban này đã làm việc một cách không liên tục cho tới cách đây 3 năm, khi Cha Misobe được chỉ định làm Chủ tịch, thì công việc mới được tiến hành nhanh chóng hơn, với các tìm kiếm và nghiên cứu tại 17 quê quán hay nơi sinh sống của các vị tử đạo, tất cả là giáo dân thuộc mọi giai tầng xã hội, ngoại trừ 4 linh mục và 1 tu sĩ. Sau cùng ngày mùng 1-6-2007 Bộ Phong Thánh đã chập thuận và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ký sắc lệnh và công bố ngày phong chân phước vào tháng 10.


Hỏi: Thưa Đức Cha đây là lần đầu tiên lễ tôn phong chân phước được tổ chức tại Nagasaki bên Nhật Bản. Việc lựa chọn Nagasaki có theo dấu vết của truyền thống hay không?


Đáp: Các Kitô hữu Nhật Bản coi Nagasaki như là chiếc nôi lòng tin của họ. Nhưng thành phố này đã được chọn vì nhiều lý do thuận tiện và cụ thể khác nữa, chẳng hạn vì số linh mục của giáo phận đông đảo cần thiết cho việc tổ chức. Tại Nagasaki Giáo Hội Công Giáo được thừa nhận như là một cộng đoàn quan trọng. Ngoài việc ủng hộ Giáo Hội, chính quyền thành phố còn cho mượn sân vận động để tổ chức lễ phong chân phước ngày 24 tháng 11. Chính quyền đánh giá cao việc có đông đảo tín hữu lui tới các nhà thờ. Dĩ nhiên đó cũng là ước mong của chúng tôi. Nhưng chúng ta cũng không được quên rằng con số 60.000 tín hữu tại Nagasaki cũng đang giảm sút. Vì các gia đình có ít con, có nhiều người di cư đi sống tại các nơi khác và số người lớn theo đạo cũng giảm.


Hỏi: Biến cố phong chân phước cho các vị tử đạo có trở thành dịp suy tư cho toàn nước Nhật hay không thưa Đức Cha?

Đáp: Làm cho người Nhật, kể cả các tín hữu công giáo hiểu ý nghĩa của việc tử đạo thật không luôn luôn là điều dễ dàng. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên một lễ nghi phong chân phước được cử hành trên đất Nhật. Vì khó mà thông truyền ý nghĩa của việc tử đạo cho người khác nên Hội Đồng Giám Mục đã cho công bố các tài liệu về các vị tử đạo, và Ủy ban đặc trách lễ phong chân phước đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ. Thế rồi mỗi giáo phận cũng đã dấn thân giải thích cho mọi người hiểu ý nghĩa của lễ phong chân phước.


Tiếp theo đây là vài nhận định của Đức Hồng Y José Saraiva Martins, nguyên Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đặc sứ của Đức Thánh Cha, chủ sự thánh lễ phong chân phước này.


Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, 188 chân phước tử đạo Nhật Bản đã để lại sứ điệp nào cho Giáo Hội hoàn vũ nói chung và cho Giáo Hội Nhật Bản nói riêng?


Đáp: Trước hết các vị đưa ra cho chúng ta một sứ điệp rất phong phú, thời sự và quan trọng. Sứ điệp thứ nhất hướng tới người trẻ và giáo dân. Trong số 188 vị tử đạo có 183 vị là giáo dân, chỉ có 5 vị là linh mục thừa sai gồm 4 vị dòng Tên và 1 vị dòng thánh Agostino. Chúng ta biết là Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh rất nhiều trên vai trò của giáo dân giữa lòng Giáo Hội và ngài đã khẳng định rằng sự thánh thiện không phải chỉ dành để cho các linh mục và các nữ tu, mà cả cho giáo dân và cho toàn thể Giáo Hội nữa. Nên thánh là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Vì thế một trong các điểm của sứ điệp là nhắc nhớ cho anh chị em giáo dân biết rằng họ được mời gọi nên thánh và làm chứng cho điều quan trọng nhất trong Giáo Hội là sự thánh thiện. Tử đạo là chứng tá mạnh mẽ nhất: thích hiến dâng mạng sống hơn là chối bỏ lòng tin của mình. Điều này giả thiết các vị đã sống lòng tin một cách sâu xa trong cuộc sống thường ngày.


Thế rồi còn có một điểm khác nữa của sứ điệp hướng tới các gia đình Kitô. Trong số các vị tử đạo có nhiều gia đình gồm cha mẹ và con cái. Chúng ta biết tình trạng gia đình trên thế giới ngày nay đang gặp khủng hoảng như thế nào. Rất tiếc là các giá trị của gia đình ngày càng mờ nhạt đi, nhiều khi cho tới chỗ biến mất không còn gì. Vì vậy sự kiện cả gia đình đều chết vì đạo nhắc nhớ cho các gia đình ngày nay, cha mẹ và con cái, phải sống chứng tá cho lòng tin, sống lòng tin sâu đậm. Vì vậy đậy không phải là một chứng tá cá nhân, mà là chứng tá tập thể của toàn gia đình, là Giáo Hội tại gia.


Hỏi: Thưa Đức Hồng Y tại sao các vị lại đã bị bách hại và bị giết chết như thế?


Đáp: Chắc chắn không phải là vì các lý do chính trị hay kinh tế rồi, vì chúng ta biết rõ là vào thời đó cũng có các người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, người tây phương nói chung, sang Viễn Đông buôn bán doanh thương. Thái độ khép kín với Tây Âu và nền văn hóa tây âu cũng đã khiến cho Giáo Hội Công Giáo bị liên lụy. Do đó có thể có người giải thích sự tử đạo này trong chìa khóa chính trị. Vì đạo Công Giáo đã do người tây phương đưa vào Nhật Bản, và người ta chống lại người tây phương nên họ cũng chống lại tín hữu công giáo. Nhưng giải thích như thế không đúng. Các tín hữu này đã hy sinh mạng sống vì lòng tin. Đây là lý do đã được các nghiên cứu lịch sử minh chứng. Cái chết của các vị không thuộc trật tự trần thế, dân sự, kinh tế hay hành chánh, mà hoàn toàn thuộc trật tự tôn giáo. Người ta đã thù ghét người công giáo, vì sợ họ bành trướng tại các vùng đất viễn đông. Vì thế đã có môt cuộc bách hại rất mạnh mẽ và bạo lực chống lại các Kitô hữu. Bằng chứng là người ta hứa cho tiền những ai tố cáo các Kitô hữu. Chẳng hạn ai tố cáo một linh mục thì được thưởng 10 đồng; ai tố cáo một tu sĩ thì được thưởng 5 đồng; ai tố cáo một giáo dân thì được thưởng 3 đồng. Vì thế lý do cái chết vì lòng tin của các vị rất là rõ ràng.


Ngoài ra còn có một sự kiện khác nữa: đó là những người bách hại các Kitô hữu quảng cáo biến cố xử tử các Kitô hữu bằng cách chém đầu, hay đóng đanh hoặc thiêu sống khi các vị còn sống, và họ muốn cho nhiều người tới chứng kiến các vụ hành quyết. Để làm gì vậy? Để nói rằng: ”Hãy coi đó, nếu các người trở thành Kitô hữu hay nếu các người không chối bỏ lòng tin của mình, thì các người cũng sẽ chịu số phận như thế”. Họ đã quảng cáo rất mạnh mẽ cho các vụ hành quyết nhóm. Dĩ nhiên sự kiện này đã gây ra một hiệu qủa mà chính họ đã không ngờ tới: đó là khi làm như thế họ đã khiến cho có rất nhiều nhân chứng và chứng từ lịch sử rất qúy báu của các vụ bách hại đó.


Dầu sao đi nữa thì vẫn có một điều rất chắc chắn trên bình diện lịch sử: đó là lý do duy nhất khiến cho 188 vị đã bị giết chết là lòng tin, mà các vị đã nhất quyết không chối bỏ, cho dù có phải hy sinh mạng sống đi nữa.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y có trông thấy một tương quan giữa vụ bách hại Kitô hữu Nhật Bản hồi thế kỷ XVI với các cuộc bách hại tại Á châu hiện nay như bên Ấn Độ, Indonesia và Irak hay không?


Đáp: Có. Chắc chắn là có tương quan rồi, một tương quan giáo hội rất sâu đậm trong nghĩa này: đó là Giáo Hội công giáo, Giáo Hội của Chúa Kitô là một Giáo Hội của các vị tử đạo và đã luôn luôn là Giáo Hội của các vị tử đạo. Trong hơn hai ngàn năm lịch sử của mình Giáo Hội đã không bao giờ cởi bỏ chiếc áo đẫm máu tử đạo của mình. Giáo Hội mà Chúa Kitô đã nghĩ, đã muốn, đã thành lập, để tiếp tục sứ mệnh của Chúa sau khi Người về trời, không chỉ là Giáo Hội của lời sai ”các con hãy ra đi và dậy dỗ”, tức Giáo Hội truyền giáo; cũng không phải chỉ là Giáo Hội thánh thể được xây dựng trên bí tích Thánh Thể ”hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”; mà cũng là Giáo Hội của các vị tử đạo nữa, vì Chúa Giêsu đã nói: ”Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”. Đó là lý do của các cuộc bách hại dọc dài lịch sử Giáo Hội, trong các thế kỷ thời Giáo Hội khai sinh cũng như trong các thế kỷ sau đó và cho tới ngày nay. Chúng phản ánh lời của Chúa Giêsu và là bằng chứng cho thấy Giáo Hội thực sự là Giáo Hội của các vị tử đạo.


Và chính máu các vị tử đạo khiến cho Giáo Hội được phong phú và khiến cho sự hữu hiệu và thừa tác của Giáo Hội được phong phú. Chúng ta không được ảo tưởng: Giáo Hội truyền giáo cũng là Giáo Hội của máu: đó là chứng tá cao cả mà Chúa Kitô đã là người đầu tiên sống và nó phải phản ánh trên mọi thành phần của thân mình Chúa Kitô. Như thế Kitô hữu phải luôn sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình để bảo vệ lòng tin nếu cần. Đó là điều đã xảy ra và đang xảy ra tại những nước mà qúy vị vừa nhắc tới trên đây.

Mục lục

 

 

Cảm xúc nhân dịp đi dự lễ phong chân phước cho 188 vị tử đạo Nhật Bản


NAGAZAKI - Ngày 19 tháng 6 năm 1988, lễ phong Thánh cho 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam đã được tổ chức tại Roma. Không ít tín hữu Việt Nam sống tại Nhật cũng muốn đi tham dự biến cố trọng đại này của giáo hội. Tuy nhiên, địa lý, điều kiện xã hội đã ngăn trở chúng ta cơ hội hưởng diễm phúc có một không hai này.


 20 năm sau, tại miền đất tôi tạm dung, 188 vị tử đạo Nhật Bản đã được tòa thánh quyết định phong Chân phước. Dù không cùng quốc gia, nhưng cùng là con cái Chúa và được con cháu của các vị đùm bọc bao năm trời, chúng tôi cũng hưởng trọn niềm vui này không khác gì họ. Đặc biệt, lễ phong Chân Phước lần đầu tiên được tổ chức tại Nhật ngay “thánh địa” Nagasaki, cái nôi công giáo Nhật Bản.


Là một tín hữu bình thường, tôi từng nghĩ rằng có lẽ trong cuộc đời không dễ gì tham dự được một nghi thức phong chân phước hoặc phong thánh ngay tại nơi mình sinh sống. Thêm nữa, trong lúc tình hình kinh tế khó khăn, để đưa cả gia đình vượt trên 800 cây số đi dự lễ thì cũng trở thành một vấn đề. Tuy nhiên khi bà bộ trưởng tài chánh của gia đình quyết định, “đời người chỉ có một lần” thì tôi mừng không khác gì trúng số! Tôi nhẩm thầm, “cái đời người chỉ có một lần” giữa tôi với bà bộ trưởng không chừng đã diễn ra nhiều lần... những rõ ràng lần này chắc chắn chỉ có 1 lần.. đợi đến khi các ngài được phong Thánh ở Nhật thì không chừng mình đã hóa ra người thiên cổ!


Sau khi được “ơn trên” tôi lao vào Internet để tìm tòi vé rẻ. Máy bay thì thua, vì vé rẻ đi Nagasaki đã được các tìn hữu địa phương nhanh tay đặt trước. Đi theo tour của địa phận thì đành chịu vì ngoài khả năng tài chánh. Ngay cả Giáo xứ cũng cho biết không thể tổ chức đi thành đoàn vì bó tay trong vấn đề đặt vé và chỗ ở. Một vài gia đình người bạn rủ đi bằng xe hơi, tôi phân vân... đi thì được nhưng về thì lại cày không nổi. Cuối cùng giải pháp đi bằng Shinkansen và xe điện tốc hành từ Osaka- Nagasaki đặt ra, tổng cộng mất khoảng 5 tiếng. Vấn đề di chuyển đã xong, còn chuyện ngủ lại cũng vất vả không kém... tìm cái phòng ở được với giá bình dân không phải là chuyện dễ dàng vì nhằm ngay 3 ngày nghỉ của Nhật. Thế nhưng cuối cùng cũng còn sót 1 cái phòng 3 giường ở một khách sạn vừa vừa gần trung tâm thành phố. Việc chuẩn bị chuyến hành hương như vậy là tạm ổn.


Trước ngày khởi hành 3 ngày, không khí đón mừng đã đến sớm với Osaka và Kobe, khi phái đoàn gồm đức Hồng y Phạm minh Mẫn, 2 đức cha địa phận Phú Cường và Mỹ Tho cùng 3 cha khác đã ghé thăm và dâng lễ mừng các thánh tử đạo Việt Nam cho 2 cộng đoàn. Lần đầu tiên tín hữu công giáo Việt Nam tại Kansai được Đức hồng y, các Đức cha, các cha cùng Đức tổng chủ nhà Osaka dâng lễ. Thật không còn ý nghĩa gì hơn với sự trùng hợp ngày phong chân phước cho các vị Nhật Bản lại đúng vào ngày mừng các thánh tử đạo Việt Nam.


Ngày 23, gia đình chúng tôi khởi hành bằng xe điện đi Nagasaki. Một số gia đình bạn trước đó đã lên đường bằng xe hơi, vượt quãng đường dự trù dài 12 tiếng đồng hồ. Được cha Cao sơn Thân thông báo, tối 23 có tiệc gặp mặt gia đình tu sĩ tại Nhật với phái đoàn Việt nam, do một mạnh thường quân tại Nagoya bảo trợ; rất tiếc chúng tôi không thể nào tham dự buổi tiệc nghe nói rất vui, dự trù 30 người... đã lên tới trên 50 người; khiến một mạnh thường quân khác ở Kobe, người liên tục lo việc di chuyển cho phái đoàn Việt Nam, đã xin ra tay bảo trợ ké trong niềm vui “đời người chỉ có một lần”.


Đến Nagasaki, đường phố đã lên đèn, cây giáng sinh trước ga thật khổng lồ và rực rỡ... tới khách sạn nhận phòng, đã thấy để trên quầy các tờ giới thiệu ngày lễ phong chân phước. Không dự tiệc với gia đình tu sĩ được thì đành dùng cơm gia đình vậy. Tôi dẫn Bà bộ trưởng tài chánh và tiểu thơ đi xuống phố Tàu, chọn 1 cái nhà hàng tươm tất vào gọi món đặc sản mì của Nagasaki là Champon. Hai mẹ con vừa ăn vừa khen nức nở. Từng có dịp làm việc ở vùng Kyushu này cách đây mười mấy năm trước, tôi nhận thấy sở dĩ món mì Kyushu có hương vị đặc biệt là do một nguyên liệu nêm đặc chế có mùi thum thủm; chẳng khác gì người Nhật trước khi ăn bún riêu cũng cảm nhận cái mùi khăm khắm của mắm tôm cho vào bún riêu... nhưng lúc ăn thì tuyệt vời!


Buổi tối về khách sạn, việc đầu tiên là tôi xem dự báo thời tiết. Mưa 80% cho đến 6 giờ chiều... Thôi, đành phải đội mưa dự lễ vậy. Khí tượng Nhật đã thông báo trước 1 ngày thì chắc như đinh đóng cột. Tuy nhiên, trong thâm tâm chưa bao giờ tôi lại mong đài khí tượng Việt Nam sang Nhật công tác như lúc này... vì chắc chắn “đài nhà” sẽ làm mình an tâm hơn với bản tin: “trời nắng nhẹ, lắc rắc chỉ vài giọt mưa cho đến trưa...”


Quả nhiên sáng hôm sau, trời mù rồi mưa vần vũ... Tôi xúi con gái cầu nguyện với các vị Chân phước giang tay che chở bớt mưa được chút nào hay chút đấy. Nó giỏi tiếng Nhật hơn tôi may ra các ngài nghe dễ hiểu hơn. Một mặt tôi liên lạc cho ông anh ở gần địa điểm tổ chức xem tình hình như thế nào; ông ấy an ủi: Các đấng tử đạo ngày xưa chịu bao nhiêu khổ ải thì chúng ta đội chút xíu mưa thấm thía gì. Nghe cũng có lý... May quá, đến 10 giờ nắng lên một chút, lợi dụng mưa nhẹ hạt, gia đình tôi ra khỏi khách sạn, ghé tiệm tạp hóa mua cái dù rồi nhảy lên xe điện nổi của thành phố đi tới cầu trường Nagasaki. Lên xe, thấy hầu hết hành khách đã đeo huy hiệu mừng lễ. Vài trạm kế tiếp có một số Sơ lên, sau đó thêm một số cha thầy... không khí rộn rã. Nắng lên cao khiến tôi hy vọng... kỳ này khí tượng Nhật sẽ phải học nghề khí tượng Việt Nam!


Tới địa điểm, hàng đoàn người lũ lượt tiến vào các cổng... Tôi gặp vài người quen của giáo xứ; tay bắt mặt mừng xong tiếng vào khu vực dành riêng cho Osaka. Gặp thêm một số bạn bè đến từ Himeji và Kobe cùng các em tập sinh Việt Nam dòng thánh Giuse. Ai nấy đều náo nức. Trong khí đó, phía dưới sân, ca đoàn 1200 người đang thánh thót những bản thánh ca vang vọng. Cảnh tượng 30.000 người ngồi đầy cầu trường quả là hình ảnh “đời người có một không hai”.


11 giờ rưỡi, Video được chiếu qua hai màn ảnh rộng, giới thiệu bối cảnh hy sinh của các vị chân phước. Năm 1981, nhân chuyến viếc thăm Nagasaki, cố Đức thánh cha Gioan Phaolo 2 đã tâm sự, ngài muốn thêm vào danh sách các thánh, các chân phước những vị tử đạo xứ Phù Tang. Năm 1984, Hội đồng giám mục Nhật Bản bắt đầu cuộc điều tra và tới năm 1996 thì hoàn tất hồ sơ xin phong chân phước cho 188 vị; đứng đầu là cha Phê rô Kibe; xuất thân từ tỉnh Oita; người đầu tiên của Nhật thăm viếng thánh địa Giêrusalem, du học tại Roma sau đó về nước truyền giáo và tử đạo tại Edo tức Tokyo ngày nay.


12 giờ, nghi lễ bắt đầu, cũng là lúc trời chuyển mưa nặng hạt. Chợt dưng một cái gì thật linh thiêng khi tiếng chuông đổ dồn, mắt tôi rưng rưng khi nhìn lên lễ đài. 30.000 người chìm đắm trong tiếng mưa và thánh ca. Từ xa, tôi thấy một số phụ nữ mặc Kimomo mang những bình dường như đựng đất hay tro cốt tới đặt dưới bàn thờ, kế đó là hàng trăm linh mục tiến vào hai bên bàn thờ. Cuối cùng là một màu đỏ rực áo choàng của các đức giám mục và hồng y.


Đức hồng y Shirayanagi chủ tế, trước khi khai mạc thánh lễ, đã giới thiệu Đặc sứ của Đức thánh cha Benedicto 16 cùng các vị hồng y và giám mục đến từ các nơi trên thế giới trong đó có Hồng y Phạm minh Mẫn cùng 2 đức cha của giáo hội Việt Nam. Kế đến các đức cha đại diện cho các địa phận có tín hữu tử đạo được phong chân phước giới thiệu những vị thánh ánh hùng đã đổ máu nơi địa phương mình. Đông nhất là Yonezawa ở phía Bắc nước Nhật, 53 vị; kế đến là Kyoto, 52 vị; khu vực Nagasaki gồm có 5 nơi Shimahara, Unzen 29 vị, Arima 8 vị, Nagasaki 4 vị, Ikitsuki 3 vị và Amasho 1 vị. Ngoài ra thủ phủ Kyushu là Kokura, Ota, Kumamoto có 18 vị, Yashiro 11 vị, Hiroshima 3 vị, Yamaguchi 2 vị và Satsuma của Kagoshima là 1 vị. Vùng Tokyo có 2 vị, trong đó có cha Phêro Kibe đã nhắc ở trên. Osaka được 1 vị. Trong lúc giới thiệu, thỉnh thoảng người ta nghe được tiếng gió thổi lồng lộng qua micro, nghe như tiếng sấm từ trời vang dội. Vị giám mục đang kể lại câu chuyện của 1 bà mẹ Chân phước bị thiêu cùng những đứa con nhỏ. Một đứa nói: -Mẹ ơi, sao nóng quá, con không thấy gì hết. Người mẹ trả lời: -Cố gắng đi con, còn một chút nữa thôi, một chút xíu nữa thôi...mẹ con ta sẽ thấy nhau trên trời.


Không ai nói ra, nhưng chắc mọi người đều có suy nghĩ như tôi là Bà mẹ thánh cùng những người con thánh và các đấng khác đang về cùng hiện diện với chúng tôi trong ngày trọng đại này


Sau phần nhập lễ, Đức hồng y đặc sứ José Saraiva Martins chậm rãi đọc tuyên thư của Đức giáo hoàng, quyết định phong chân phước cho 188 vị tử đạo Nhật Bản. Tấm màn che bức tranh biểu tượng của các Chân phước tử vì đạo cao gần 10 m được kéo xuống trong tiếng vỗ tay nức trời. Lạ lùng thay, nắng lên... không còn một hạt mưa. Những anh chị đã cùng tôi hiện diện trong buổi lễ này chắc chắn đã cảm nhận được hiện tượng lạ lùng trên, vì mưa đã ngưng luôn cho tới cuối thánh lễ. Tôi không cho đó là một phép lạ đâu, chỉ là một cảm nghiệm mà các vị Chân phước muốn truyền đạt cho chúng ta... những khó khăn, khổ nhọc của lúc ban đầu biểu hiện qua cảnh 30.000 người đứng dưới mưa nhằm chia sẻ với sự hy sinh của các đấng rồi sẽ qua đi để bắt đầu một tương lai tươi sáng trên nước trời qua hình ảnh ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

Thánh lễ được tiếp tục trong niềm tri ân tới 4 giờ rưỡi chiều. Mặc dù còn muốn nấn ná lại để hưởng trọn vẹn cái không khí “đời người chỉ có một lần”; nhưng quãng đường 5 tiếng đồng hồ không cho phép.


Trên đường về lại Osaka, tôi mở trang báo của thành phố Nagasaki ấn bản đặc biệt, phát hành ngay sau thánh lễ để tìm lại cảm xúc, đồng thời tìm hiểu rõ hơn tiểu sử của những chứng nhân đã dùng chính mạng sống mình tuyên xưng đức tin. Nếu trước lúc đi, tôi hãnh diện thông báo cho bạn bè là mình sẽ đi tham dự lễ phong chân phước, thì hiện tại trong chuyến xe điện tốc hành đang xuyên qua núi đồi... tôi vứt bỏ lại niềm hãnh diện đã có; thay vào đó là suy nghĩ, mình phải sống làm sao cho xứng đáng với những giọt máu đào đã đổ ra trên mảnh đất này.

Nguyễn Lưu

Mục lục

HÀN QUỐC: Chương trình đọc và chia sẻ Kinh Thánh online thay đổi đời sống của người Công giáo

 

SEOUL (UCAN) - Bác sĩ John Jo Ki-ju trước đây dễ nổi nóng sau giờ làm việc vất vả ở cơ quan, điều này chấm dứt từ khi ông tham gia chương trình đọc và chia sẻ Kinh Thánh online.

"Tôi đã từng cố chống stress do gặp nhiều bệnh nhân hằng ngày bằng cách uống rượu hay tức giận vợ con" - bác sĩ y khoa 48 tuổi kể.

Tuy nhiên, giờ đây ông bố của 3 người con đã bỏ uống rượu và còn làm việc nhà nữa. Ông nói chương trình "Kinh Thánh 100 tuần" online ông tham gia cách đây 3 năm, theo yêu cầu của bà xã, người đã hoàn thành chương trình này, làm ông thay đổi thái độ.

Vợ chồng ông là giáo dân của Nhà thờ Sannam-dong ở Cheongju, cách Seoul 110 km về phía nam.

Linh mục Mathew Ri Joung-sop, chính xứ Nhà thờ Thánh Tâm Đức Mẹ ở Cheongju, phát động chương trình online này (café.daum.net/catholicbible 100) hồi tháng 11-2005 cho những người Công giáo không thể tham gia các chương trình học Kinh Thánh trong giáo xứ.

Chương trình online mô phỏng theo một chương trình cấp giáo xứ do Linh mục Marcel Le Dorze thuộc Hội Thừa sai Hải ngoại Paris khởi xướng năm 1974 ở Nhật. Đức Giám mục John Chang Yik của Chunchon giới thiệu chương trình trong các giáo xứ Hàn Quốc năm 1992.

Những người tham gia chương trình họp mặt hằng tuần trong 2 giờ bắt đầu bằng phần cầu nguyện khai mạc. Sau đó, họ đọc lại các đoạn Kinh Thánh họ được yêu cầu đọc ở nhà. Tiếp theo là bước quan trọng nhất, khi các tham dự viên chia sẻ cảm nhận của mình về các đoạn Kinh Thánh đó, không bình luận về phần chia sẻ của người khác. Sau đó, người hướng dẫn tóm tắt ý chính các đoạn Kinh Thánh đó và chia các đoạn Kinh Thánh cho cuộc họp mặt lần sau, và rồi cầu nguyện bế mạc.

Chương trình online cũng tương tự như thế, trừ việc tham dự viên viết ra lời cầu nguyện khai mạc, cảm nghĩ của họ về các đoạn Kinh Thánh và lời cầu nguyện bế mạc. Một điểm khác biệt chính đó là họ phải trả lời một số câu hỏi về các đoạn Kinh Thánh do Cha Ri giao đọc. Họ có thể đọc những điều người khác viết nhưng không bình luận. Chỉ có Cha Ri bình luận về phần chia sẻ của mỗi tham dự viên.

"Kinh Thánh 100 tuần" thực sự mất 121 tuần mới đọc xong trọn bộ Kinh Thánh - 76 tuần đọc Cựu Ước và 45 tuần đọc Tân Ước - Linh mục Benedict Choi Seung-jung, linh hướng chương trình, giải thích.

Cha Ri, lấy bằng thạc sĩ thần học Kinh Thánh tại Đại học Công giáo Paris, hướng dẫn 4 nhóm khoảng 110 giáo dân ở Hàn Quốc và nước ngoài trong chương trình online.

Ngài nói hôm 21-11 rằng đây là một trong những chương trình hay nhất để giới thiệu cho người Công giáo trong Tuần lễ Kinh Thánh, diễn ra từ ngày 23-29/11.

Giáo hội Hàn Quốc tổ chức Tuần lễ Kinh Thánh hằng năm từ năm 1985 nhằm khuyến khích giáo dân lấy Lời Chúa làm trung tâm đời sống của họ. Tuần lễ được phát động từ Lễ Đức Kitô Vua đến Chúa Nhật I Mùa Vọng, chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh, gồm 4 Chúa Nhật trước Lễ Giáng Sinh.

Một tham dự viên chương trình online khác là Gabriel Lee Jang-lib nói anh khao khát học hỏi Lời Chúa sau khi được rửa tội năm 2004 cùng với gia đình.

Thừa nhận mình "rất bướng bỉnh" trước khi tham gia chương trình năm 2007, ông bố 47 tuổi của 2 người con nói giờ đây anh cố gắng lắng nghe người khác nói mà không hề có định kiến.

Anh Lee giải thích quá trình viết câu trả lời cho các câu hỏi và chia sẻ cảm nghĩ về các đoạn Kinh Thánh hằng tuần giúp anh thay đổi. "Viết câu trả lời liên tục bắt tôi nghĩ đi nghĩ lại về các tật xấu của mình" - giáo dân của Nhà thờ Dadea ở Busan, cách Seoul 330 km về phía đông nam, bộc bạch.

Theo Cha Choi, chương trình "Kinh Thánh 100 tuần", chính thức được Tổng Giáo phận Seoul công nhận năm 2001, hiện có 40 người hướng dẫn đào tạo lại những người hướng dẫn ở cấp giáo xứ.

Tính đến tháng 7 năm nay, có 8.813 giáo dân đến từ 124 giáo xứ trên cả nước tham gia chương trình trong 1.121 nhóm. Đầu năm nay, Giáo hội Hàn Quốc có 1.511 giáo xứ trong 15 giáo phận và một giáo phận quân đội.

Mục lục

 

Đức Thánh Cha chào mừng phái đoàn của Đức Thượng phụ Arméni Tông truyền


 
VATICAN (RV) -- ĐTC Beneđictô XVI nhiệt liệt chào mừng Phái đoàn của Đức Thượng phụ Aram I tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-11-2008 và đặc biệt cám ơn sự dấn thân của Đức Thượng Phụ cho công cuộc đối thoại đại kết.

Đức Thượng phụ Aram I năm nay 61 tuổi, sinh tại Beirut, Liban, và là Giáo chủ Giáo hội Arméni Tông truyền Cilicia với trụ sở tại Antelia, Liban. Ngài hướng dẫn phái đoàn gồm 6 TGM, 2 GM và 3 phụ tá đến viếng thăm chính thức tại Toà Thánh từ ngày từ 23 đến 27-11-2008. Hôm 24-11-2008 vừa qua, Đức Thượng Phụ và phái đoàn cùng với 50 tín hữu Arméni đã được ĐTC tiếp kiến riêng, và hôm 26-11-2008 đã tham dự buổi tiếp kiến chung tại Đại Thính đường Phaolô VI, lần đầu tiên được thắp sáng nhờ năng lượng mặt trời từ mái của thính đường.

Đầu buổi tiếp kiến, ĐTC và Đức Thượng Phụ cùng tiến vào thính đường. Ngỏ lời trong dịp này, ngài bày tỏ vui mừng vì sự hiện diện của Đức Thượng phụ Aram I và đoàn tuỳ tùng, đồng thời nhận định rằng ”cuộc viếng thăm huynh đệ này là một cơ hội rất ý nghĩa để củng cố mối liên hệ hiệp nhất đã có giữa chúng ta, trong lúc chúng ta tiến về sự hiệp thông trọn vẹn”.

ĐTC đặc biệt cám ơn sự dấn thân liên lỉ của Đức Thượng phụ Aram I trong lĩnh vực đại kết, nhất là trong Uỷ ban Quốc tế chung Đối thoại Thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo hội Chính thống Đông phương, cũng như trong Hội đồng Đại kết các Giáo hội Kitô. Ngài nhắc đến pho tượng cao 5 mét của Thánh Gregorio, vị Soi sáng, được đặt tại mặt tiền Đền thờ Thánh Phêrô, vị Sáng lập Giáo hội Arméni Tông truyền, và nói rằng:

”Sự hiện diện của pho tượng này gợi lên những đau khổ thánh nhân đã phải chịu để đưa nhân dân Arméni về với Kitô giáo, nhưng tượng ấy cũng nhắc nhớ bao nhiêu vị tử đạo và những vị tuyên xưng đức tin làm cho lịch sử dân tộc Arméni được phong phú đầy thành quả nhờ chứng tá của các ngài. Nền văn hoá và linh đạo Arméni rất hãnh diện về chứng tá ấy của tiền nhân. Các vị đã trung thành và can đảm chịu đau khổ trong niềm hiệp thông với Chiên Thiên Chúa đã chịu sát tế để cứu độ trần thế”.

Trong diễn văn ứng khẩu bằng tiếng Anh sau lời chào của ĐTC, Đức Thượng phụ Aram I nói đến nguồn gốc tông truyền của 2 Giáo hội Roma và Arméni, và ngài nhận định rằng:

”Trong thế giới ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự suy đồi của các giá trị luân lý, sự gạt bỏ các giá trị tinh thần và Truyền thống ra ngoài lề. Vì thế, tôi tin rằng chúng ta cần biến nguồn gốc tông truyền của các Giáo Hội chúng ta thành ơn gọi tông đồ. Tôi chào mừng sự kiện Toà của Đức Giáo Hoàng đang dẫn đưa các Giáo Hội trong thời đại có nhiều vấn đề kinh khủng và khủng hoảng ngày nay đi vào tiến trình tái truyền giảng Tin Mừng. Tôi tin rằng chúng ta cần tái rao giảng Tin Mừng cho các cộng đồng Kitô và cho các gia đình của chúng ta, đó thực là một ưu tiên hàng đầu của các Giáo Hội chúng ta.

”Vì thế, thưa ĐTC, tôi muốn đích thân liên kết với công trình truyền giảng Tin Mừng của ngài và nhân dịp này tôi muốn đặc biệt kêu gọi tất cả các Giáo Hội trên thế giới cùng chung nỗ lực thực thi công cuộc truyền giáo tại Âu Châu, Trung Đông và các nơi khác trên thế giới”.

Mục lục

 

PAKISTAN: Trung tâm Phục hồi Caritas giúp các phụ nữ khiếm thị

LAHORE, Pakistan (UCAN) - Salma Sharif thích nghe chương trình truyền hình, mỗi ngày em ngồi trước truyền hình nhiều giờ. Em không thể xem, vì bị mù bẩm sinh, nhưng không biết phải làm gì khác.

 

"Tôi chẳng làm gì trong nhiều tháng ngoại trừ ngồi trước truyền hình, cho đến khi tôi được Trung tâm Phục hồi Ananias gọi đi làm" - Sharif nói. Caritas, tổ chức dịch vụ xã hội của Giáo hội Công giáo, quản lý trung tâm nội trú này 20 năm qua ở Lahore, cách Islamabad 270 km về phía đông nam, dành cho các cô gái và phụ nữ khiếm thị.

 

Sharif, 16 tuổi, biết trung tâm này rất rõ, vì đã học ở đó 5 năm. Sau khi học xong em trở về nhà.

"Vẫn lại buồn chán như trước" - em kể - vì bố mẹ em không biết chữ, nên không muốn cho em đi học thêm. "Trong khi những người trẻ sáng mắt và có ăn học còn bị thất nghiệp, thì một người mù có thể làm gì được?" - Họ hỏi em.

 

Cú điện thoại từ trung tâm gọi đến trả lời cho câu hỏi đó: em có thể dạy những người trẻ khác cũng gặp khó khăn như em. Mặc dù không được đào tạo sư phạm, nhưng em vẫn dạy kèm cho học sinh các môn toán, khoa học, xã hội học, nghiên cứu Hồi giáo, tiếng Anh và tiếng Urdu, quốc ngữ của Pakistan. Hiện có 20 Kitô hữu tuổi từ 6-25 ở trung tâm.

 

Sharif nói: "Lương của tôi chỉ 500 rupi (khoảng 6 Mỹ kim) một tháng, nhưng ở trung tâm tôi cảm thấy thoải mái hơn. Ít ra bây giờ tôi cũng có được cảm giác thấy thời gian trôi qua".

 

Sna Fazal, một học sinh, phục hồi được thị lực sau khi đến trung tâm. "Em bị mờ mắt lúc còn nhỏ do bị điện giật. Trung tâm tài trợ cho em đi phẫu thuật năm 2005, và giờ em có thể nhìn thấy mặt người khác" - em nói.

 

Trong khi đó, em học làm đồ thủ công và đan len qua các lớp học tại trung tâm. Tuy nhiên, em muốn làm "giáo viên để giúp những trẻ khiếm thị khác trở thành những công dân hữu ích".

 

Khalida Nelson, 54 tuổi, Giám đốc Trung tâm, nói rằng hầu hết những người ở trong trung tâm sống lệ thuộc các thành viên trong gia đình khi đến đây. "Vì thế, Trung tâm chú ý đặc biệt đến các kỹ năng sống hằng ngày. Chúng tôi khuyến khích họ làm việc, như mang một ly nước vào văn phòng hay tự dọn giường ngủ".

 

Trước khi làm việc ở trung tâm, người phụ nữ Công giáo này và nhóm của chị còn viếng thăm trẻ em khiếm thị tại nhà, dạy các em giữ vệ sinh cá nhân trong khi thúc giục bố mẹ làm cho các em cảm thấy mình có ích. "Nhìn chung người ta nghĩ các trẻ như thế vô dụng" - chị thừa nhận. Chị giải thích một lý do cần có các cuộc viếng thăm như thế là cơ sở của Caritas chật hẹp và thiếu tiền tài trợ cho một chương trình nội trú lớn hơn.

 

Trung tâm phục vụ miễn phí, mỗi tháng chi khoảng 2.000 rupi cho một người ở tại Trung tâm, tính cả tiền lương của 4 người giúp việc và 2 giáo viên. Trung tâm chỉ xoay xở nhờ tiền tài trợ của Caritas và một ân nhân nước ngoài, nguồn thu nhập duy nhất của Trung tâm - theo chị Nelson. Chị cho biết trung tâm chỉ có một máy đánh chữ nổi Braille cho tất cả học sinh ở Trung tâm.

 

Hai giáo viên, cũng bị khiếm thị, hướng dẫn học sinh đọc và viết chữ Braille lên đến tương đương lớp 5 ở các trường bình thường. Sau đó, Trung tâm chuyển các em đến các cơ sở nhà nước để các em học tiếp. Một học sinh đã vào đại học - chị Nelson nói - và gọi đây là động viên và khích lệ lớn đối với những người còn ở trung tâm.

 

"Em muốn trở thành giáo viên và giúp các trẻ khiếm thị khác học hành" - Sidra Arif, một học sinh lớp 5, 19 tuổi, nói. "Giờ chúng em đã có bạn mới và có thể chơi nhiều trò chơi khác nhau. Em còn có thể nấu được một vài món ăn, may quần áo và làm một số đồ trang trí. Quan trọng nhất là có bạn".

 

Đức cố Tổng Giám mục Armando Tridade của Lahore thành lập Trung tâm năm 1998 ở Youhanabad, một khu Kitô giáo đông dân cư thuộc ngoại ô thành phố, nhằm giúp các nữ Kitô hữu khiếm thị thăng tiến về mặt xã hội và kinh tế. Ananias, trong sách Công vụ Tông đồ, là người môn đệ mà Đức Kitô Phục Sinh dùng chữa sáng mắt cho Thánh Phaolô, người bị mù trên đường đến Damascus.

 

Mục lục

 

Đức giáo hoàng tham khảo với các giám mục về việc thay đổi một nghi thức trong thánh lễ

 

Vatican (Catholic Culture) – Đức Hồng y Francis Arinze, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật các Nhiệm tích, phát biểu với báo L’Osservatore Romano của Tòa thánh hôm thứ Sáu tuần qua rằng Đức giáo hoàng đang tham khảo với các vị giám mục trên thế giới về việc chuyển Nghi thức Chúc Bình an trong thánh lễ, lúc cộng đồng giáo dân bắt tay hay ôm nhau để tỏ dấu thân thiện và chúc bình an, hiện nay thực hiện vào ít phút trước lúc rước lễ, tới một thời điểm khác trong thánh lễ. Đức hồng y Arinze nói rằng việc đề nghị chuyển đổi nghi thức này đến thời gian sớm hơn, đó là lúc dâng của lễ, sẽ tạo ra một không khí nghiêm trang để giáo dân có thể chuẩn bị rước Mình và Máu Thánh Chúa một cách xứng đáng.


Trong một ghi chú nơi Tông huấn Sacramentum Caritatis công bố năm 2007, Đức giáo hoàng Bênêđictô viết: “Tôi đã yêu cầu các văn phòng thẩm quyền trong giáo triều nghiên cứu xem có thể chuyển Nghi thức chúc Bình an tới một chỗ khác, chẳng hạn như trước lúc dâng của lễ tại bàn thờ. Làm thế cũng còn để nhắc nhở rằng Chúa đòi hỏi chúng ta phải hòa giải với nhau trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa (Mt 5:23).”



 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các Hàn lâm viện Tòa Thánh

VATICAN. Trong Sứ điệp gửi các tham dự viên khóa họp công cộng lần thứ 13 của các Hàn lâm viện Tòa Thánh sáng 25-11-2008, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu làm chứng tá Tin Mừng qua các ngôn ngữ và hình ảnh, cho thấy vẻ đẹp của tình yêu Chúa. Ngài cũng cảnh giác trước những vẻ đẹp phù du.

Các Hàn lâm viện Tòa Thánh đã nhóm khóa họp công cộng thường niên tại Vatican về chủ đề: ”Đặc tính phổ quát của vẻ đẹp: thẩm mỹ và luân lý đạo đức đối chiếu với nhau”. Tham dự khóa họp dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, có nhiều HY, GM, các giáo sư và sinh viên.

Trong sứ điệp được ĐHY Tarcisio Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh tuyên đọc tại khóa họp, ĐTC phê bình sự miệt mài của nhiều người ngày nay chỉ tìm kiếm vẻ đẹp bề ngoài, vẻ đẹp phù vân chóng qua và hời hợt, trong sự trốn chạy vào những thiên đường giả tạo, thường che đậy một sự trống rỗng nội tâm. Ngài nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa việc tìm kiếm vẻ đẹp với sự tìm kiếm sự thật và sự thiện.

Từ tiền đề đó, ĐTC khẳng định rằng: ”Chứng tá của chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng vẻ đẹp đích thực, việc rao giảng Tin Mừng của chúng ta phải được cảm nhận trong vẻ đẹp và sự mới mẻ của nó, vì thế, cần phải biết thông truyền bằng ngôn ngữ của hình ảnh và biểu tượng; sứ mạng thường nhật của chúng ta phải trở thành một sự biểu lộ hùng hồn về vẻ đẹp của tình yêu Chúa, để có thể đạt tới những người đồng thời một cách hữu hiệu. Họ là những người thường bị chia trí và bị thu hút vì một bầu không khí văn hóa không luôn luôn hướng về sự đón nhận một vẻ đẹp hoàn toàn hòa hợp với sự thật và sự thiện, tuy họ vẫn nhung nhớ một vẻ đẹp chân chính, không hời hợt và chóng qua.

ĐTC cũng nhắc đến Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 12 vừa qua về Lời Chúa, trong đó ”nhiều nghị phụ đã nêu bật giá trị ngàn đời của nghệ thuật, giá trị ngàn đời của vẻ chứng tá vẻ đẹp trong việc rao giảng Tin Mừng; vì thế cần phải biết đọc và xem xét vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật, được sáng tác theo hứng từ đức tin và được các tín hữu cổ võ, để khám phá nơi đó một hành trình đặc biệt dẫn đến Thiên Chúa và Lời của Chúa.”

Cuối sứ điệp, ĐTC đã loan báo tên của một số người được giải thưởng năm nay của các Hàn lâm viện Tòa Thánh, trong đó có tiến sĩ Daniele Piccini, nổi bật về một nghiên cứu phê bình về thi phú và văn chương, đặc biệt là văn chương Italia thời nguyên thủy và thời Phục Hưng; ông cũng tích cực tranh đấu trong lãnh vực thơ văn, được biểu lộ qua một số hợp tuyển quan trọng. (SD 25-11-2008)

Mục lục

 

Đức Thánh Cha chỉ định một giáo dân Hàn Quốc làm kiểm toán viên cho Toà Thánh

VATICAN (UCAN) -- Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vừa chỉ định một lãnh đạo giáo dân Hàn Quốc làm kiểm toán viên quốc tế kiểm tra tài chính của Toà Thánh.

Đức Thánh Cha bổ nhiệm Thomas Han Hong-Soon, một giảng viên kinh tế tại Đại học Nghiên cứu Đối ngoại Hankuk, ở Seoul, làm kiểm toán viên cho Bộ Kinh tế của Toà Thánh, Vatican thông báo hôm 22-11.

Đức Thánh cha Phaolô VI thành lập bộ này năm 1967 được xem là văn phòng kiểm toán nội bộ của Giáo triều Rôma. Bộ này giám sát và hướng dẫn việc quản lý tài chính của tất cả các ban ngành liên quan đến Toà Thánh, ngoại trừ Ngân hàng Vatican và Peter's Pence (đồng hào Phêrô), phần đóng góp hàng năm cho Đức Thánh cha. Bộ này xét duyệt hồ sơ, báo cáo tài chính và ngân quỹ hàng năm của các ban ngành, và đề nghị Đức Thánh cha chấp thuận hay không chấp thuận.


Ông Han trở thành thành viên thứ năm trong đoàn kiểm toán viên quốc tế của bộ này. Đoàn hoạt động dưới quyền của một ban lãnh đạo gồm các hồng y trợ giúp vị hồng y đứng đầu bộ.


Giảng viên này là chủ tịch Hội Tông đồ Giáo dân của Hàn Quốc và còn là thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân. Ông đã tham dự một số Thượng Hội đồng giám mục với tư cách là thính giả.


Năm 2007, ông có mặt trong phái đoàn Hàn Quốc tham dự Đại hội Thế giới lần II của các Tổ chức Giáo hội làm việc cho Công lý và Hoà bình, được tổ chức ở Rôma.


Nhiều quan sát viên ở Rôma tin rằng lần bổ nhiệm mới này có liên quan đến phần phát biểu của ông tại Thượng Hội đồng Giám mục về Lời Chúa gần đây, trước sự hiện diện của Đức Thánh cha. Ông Han kêu gọi các lãnh đạo Giáo hội xem xét lại cách sống và tài sản trong Giáo hội và bảo đảm tất cả các khế ước họ ký tôn trọng các nguyên tắc cơ bản về công bằng xã hội.


Trong phần phát biểu hôm 14-10, viện sĩ Hàn Quốc nói người ta tin ở tính thánh thiện của sự sống hơn là luận chứng trí tuệ, và thúc giục người Công giáo thực hành giáo huấn xã hội của Giáo hội.


Ông Han nói: "Các lãnh đạo Giáo hội cần nghiêm túc xem xét lối sống và tài sản trong Giáo hội theo ánh sáng Lời Chúa và đưa ra mọi biện pháp khả thi để thực hiện giáo huấn xã hội".

Khi làm các hợp đồng thương mại, Giáo hội phải bảo đảm các nguyên tắc công lý, tiền lương đủ sống và điều kiện làm việc tốt có trong hợp đồng. Thật tiếc, hồ sơ của Giáo hội không phải lúc nào cũng thoả đáng", ông khẳng định.


Ông hy vọng Thượng hội đồng thúc đẩy đời sống Thánh kinh "phù hợp với một Giáo hội chứng nhân" và việc đào tạo thay đổi đời sống cho giáo dân dựa trên giáo huấn xã hội của Giáo hội và nhằm chống lại "các cơ cấu tội lỗi".


Việc đào tạo như thế phải "được thể hiện bằng hành động", ông nói và nhắc lại lời khẳng định của Đức Bênêđictô trong thông điệp Spe Salvi (trong hy vọng chúng ta được cứu rỗi): "Thông điệp của Đức Kitô không chỉ “cung cấp nhiều thông tin bổ ích” mà còn “được thể hiện bằng hành động” … [một sự chuyển thông] khiến mọi việc xảy ra và thay đổi đời sống".


Ông Han còn nói với Thượng hội đồng: "Chúng ta cần có các nhà giáo dục giỏi về lĩnh vực giáo huấn xã hội và về nghiên cứu Lời Chúa". Lãnh đạo giáo dân Hàn Quốc thúc giục các lãnh đạo Giáo hội đầu tư các nguồn nhân lực và tài chính trong việc đào tạo các nhà giáo dục.

 

Mục lục

 

 

Đức Thánh Cha đau buồn vì các vụ tấn công tại Mumbai

VATICAN CITY, 27/11/2008 (Zenit.org). - Sau vụ bộc phát các cuộc tấn công của quân khủng bố, Đức Thánh Cha kêu gọi việc chấm dứt các hành động khủng bố vì gây nguy hại trầm trọng cho phẩm giá con người.

Điều này được khẳng định trong một điện tín do Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh gửi cho Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục Mumbai, Ấn Độ.


Cho tới hôm nay, đã có 119 người được báo cáo thiệt mạng và 288 người bị thương trong một lô các cuộc tấn công được khởi sự đêm thứ tư và tiếp diễn cho tới hôm nay tại Mumbai. Người ta cho là nhóm quân phiệt Hồi giáo đã có trách nhiệm về các vụ này.


Điện tín được viết như sau: “Vì Đức Thánh Cha hết sức ưu tư về sự bùng nổ các cuộc bạo hành tại Mumbai, ngài xin Đức Hồng Y chuyển đến gia đình của những nạn nhân bị thiệt mạng trong các cuộc tấn công dã man này lời phân ưu, và bày tỏ sự hiệp nhất thiêng liêng của ngài với chính quyền, các công dân, và tất cả những ai lãnh chịu hậu quả. Đức Thánh Cha khẩn thiết kêu gọi chấm dứt tất cả mọi hành động khủng bố, gây thiệt hại đến gia đình nhân loại và làm xáo trộn nặng nề nền hòa bình và sự hợp quần cần thiết để xây dựng một nền văn minh xứng đáng với ơn gọi cao quý của con người là yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.


"Đức Thánh Cha cầu nguyện cho sự yên nghỉ của các linh hồn nạn nhân và khẩn xin Thiên Chúa ban ân sủng sức mạnh và sự ủi an cho những ai bị tổn thương và đang than khóc.”


Về phần Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ, các giám mục cũng quả quyết lên án các cuộc tấn công khủng bố.


Tổng Giám Mục Stanislaus Fernandes, Tổng thư ký của Hội đồng cũng bày tỏ lời chia buồn và ưu tư sâu đậm, ngài nói: “Các cuộc tấn công khủng bố tại nhiều nơi khác nhau ở Mumbai trong đó các người vô tội bị giết, người ngoại kiều bị chọn làm mục tiêu và các cảnh sát ưu tú bị thảm sát, là một trong những hành động dã man nhất và phải bị tất cả mọi người lên án bằng những lời mạnh mẽ nhất bởi. Khủng bố là sự dữ, và tất cả những ai có liên quan tới bất cứ hành động khủng bố nào đều là những kẻ chống lại nền tảng chính của đời sống con người, và đời sống là một điều thiêng liêng dưới mắt Thiên Chúa."

 

Mục lục

 

 

 

Sri Lanka: Giáo Hội giúp giới trẻ miền duyên hải cai rượu và ma túy

THODUWAWA, Sri Lanka (UCAN) -- Lúc lên 17 tuổi, Suraj Sanjeewa, con trai của một ngư dân nghèo đã nát rượu và hút ganja (cần sa) nặng đến nỗi chẳng thèm nhai hỗn hợp kích thích gồm ganja và thuốc lá nữa.

"Em có dùng ma tuý với các ngư dân và thợ nề một thời gian", Sanjeewa kể hôm 16-11, khi em cùng một vài người nghiện đang được phục hồi gặp nhau trên bãi biển ở làng Thoduwawa, cách Colombo 65 km về phía bắc.


Nay đã 20 tuổi, em nói do nghiện rượu và ma tuý mà em bị mất danh tiếng trong làng, mất lòng tự trọng, bệnh tật và cả bạn gái.


Chàng thanh niên nhận thấy mình may mắn hưởng lợi từ những nỗ lực của linh mục Niranjan Susantha Wijerathna, người được sai đến đây năm 2006 trong lần bổ nhiệm đầu tiên sau khi chịu chức linh mục dòng Biển Đức đến từ Batticaloa, thuộc miền đông duyên hải Sri Lanka.


"Lần đầu tiên tôi đến đây, điều mà tôi để ý thấy là rượu lậu và ma tuý cũng như ganja đầy dẫy trong các vùng này, và một số bạn trẻ bị nghiện", cha Wijerathna, 33 tuổi, phó xứ nhà thờ Thánh Antôn ở Thoduwawa, cho biết.


Giáo xứ của ngài trông coi một vùng có 5.000 gia đình, đa số là Công giáo. Phần lớn trong số 1.700 gia đình ở Thoduwawa kiếm sống bằng nghề đánh bắt cá trên biển, họ đi biển bằng bè gỗ.


Bằng cách tiếp xúc người nghiện "như một người trẻ tiếp xúc với một người trẻ khác" và tập trung khoảng 900 bạn trẻ tham dự "một ngày tĩnh tâm" trong năm 2007, vị linh mục nói ngài xác định được ai là người bị nghiện. Sau đó ngài thành lập sáu trung tâm giới trẻ trong khu vực giáo xứ để xử lý vấn đề.


Trường hợp của Sanjeewa là chuyện bình thường. Em đổ lỗi do các bạn cùng trang lứa ép và bạn bè dẫn em đến với ma tuý, điều được em nói với UCA News là chuyện thường gặp nơi các gia đình nghèo không được ăn học, thường xảy ra bất hoà và bố say sưa tối ngày.


Lúc đầu do nghi ngờ vị linh mục, Sanjeewa "cảm thấy khó chịu khi đến với dịch vụ chữa lành, em đến chỉ vì tôn trọng Giáo hội", em nói, và nhóm bạn của em gật đầu tán thành.


Dilan Appuhami, một sinh viên 19 tuổi, nói thêm em ghét "cảm giác như tiếng chuông reo" trong đầu do uống rượu. Giờ em có thể tập trung học hành, vì cả em lẫn bố là một ngư phủ đã "cai được rượu" sau khi tham gia chương trình của vị linh mục.


Một số người được tham gia các chương trình cai nghiện nghiêm ngặt tại một bệnh viện tâm thần của nhà nước và một trung tâm của Giáo hội gần Colombo. Các chương trình nâng cao nhận thức, thể thao, văn nghệ và tài năng được tổ chức để giảm bớt căng thẳng trong quá trình cai nghiện.


"Chúng tôi đưa 10-15 người đến các trung tâm phục hồi ở Colombo và đa số họ bây giờ đã bình phục", cha Wijeewa cho biết và nói thêm nhóm giới trẻ của ngài, các thành viên trong hội đồng giáo xứ và những người lớn tuổi đã cai nghiện thành công cho cả thảy 35 người.


Ngài ước tính có khoảng 40 bạn trẻ nữa đang có nguy cơ bị nghiện ma tuý và nói Cục cảnh sát chống ma tuý đang giúp ngài đối phó.


"Chúng tôi đang tìm việc làm cho các bạn trẻ trong các nhà máy và ở những nơi khác", W. Emmanuel Fernando, 55 tuổi, thành viên hội đồng giáo xứ, cho biết.


Cha Wijerathna khẳng định ngài không sợ những kẻ buôn bán ma tuý và những người nghiện nặng chống đối chương trình của ngài, vì ngài được các vị bề trên và đa số dân làng ủng hộ.


Gần đây hội đồng tỉnh North Western, nơi cha Wijerathna ở, chính thức khen ngài đã can đảm và làm việc năng nổ giữa dân chúng.


Theo Hội chống Ma tuý Sri Lanka, nước này có hơn 40.000 người nghiện ma tuý. Tổ chức phi chính phủ này nhận thấy nghèo đói, các vấn đề xã hội và gia đình, và nạn thất nghiệp là các nhân tố chính khiến giới trẻ lao vào con đường nghiện ngập.


Sanjeewa, cai nghiện hai tháng tại một trung tâm cai nghiện ở Colombo, cho biết em may mắn thoát khỏi cạm bẫy ma tuý và nói lên những dự định sau này. "Trước hết em sẽ tìm một công việc làm. Sau đó em sẽ giải quyết các vấn đề với bạn gái em", em nói.

 

Mục lục

 

Đức TGM Hà Nội và LM Tổng Thư ký UBBAXH thăm bà con vùng lũ trong TGP Hà Nội


Hà Nội − Ngày 23-11-2008, ngày Lễ Chúa Kitô Vua, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, TGM. TGP. Hà Nội, đã dẫn đầu một đoàn đến Giáo xứ Đồng Chiêm, thuộc TGP. Hà Nội, nơi đã bị ngập lụt và chịu thiệt hại nặng nề sau trận mưa to vào đầu tháng 11 vừa qua. Mục đích của chuyến viếng thăm lần này là để tiếp tục an ủi, động viên những người trực tiếp bị ảnh hưởng bởi lũ, đồng thời cũng để thẩm định tình hình thiệt hại nhằm hỗ trợ phục hồi cho giáo dân xứ Đồng Chiêm một cách hiệu quả hơn. Trước đó, ngài đã cử Cha Tổng Quản lý, Cha phó Văn phòng, các thầy chủng sinh và một số dòng tu đến cứu trợ nơi đây.

Ngoài Đức Tổng Giuse, đoàn còn có Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký Uỷ ban Bác ái Xã hội (UBBAXH), Lm. Giuse Nguyễn Bình An, Việt Kiều Mỹ, anh cả trong gia đình linh tông với Đức Tổng Giuse; Sr. Anna Nguyễn Thị Mai Trang, OSP, thuộc UBTTXH, Chị Nguyễn Thị Ngọc Dung, hiện ngụ tại Nhà Hưu dưỡng Hà Nội ở TP. HCM, đang dịp công tác ở Hà Nội; Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, Thư ký TGM. Hà Nội, cùng với 2 thầy dự tu của TGP. Hà Nội.

Tình từ ngày lũ về Hà Nội đến nay đã non một tháng, nhưng nhiều cánh đồng 2 bên đường về ngoại thành nước vẫn còn trắng xoá. Đường vào Đồng Chiêm tuy không còn lầy lội như mấy tuần trước do nước đã dần rút đi từ 5 ngày nay, nhưng tài xế cũng phải cho xe chạy lòng vòng mới vào đến nhà thờ vì nhiều đoạn đường bị hỏng hoặc đang sửa chữa dang dở.

Gác lại những sầu buồn sau những đau khổ, mất mát, những giáo dân xứ Đồng Chiêm hôm nay tràn nập niềm vui, đơn giản vì họ đang nao nức đón Đức Tổng Giuse. Ngay trên con đường nhỏ dẫn vào nhà thờ, khi thấy xe của đoàn đến từ đàng xa, hàng trăm em thiếu nhi vùng chạy ra đón ngài như một bầy ong vỡ tổ, cùng giúp đẩy xe qua đoạn đường hỏng, rồi chạy trước đón rước ngài đến nhà thờ trong tiếng reo hò vui mừng. Tại đây đã có đông đảo bà con xếp thành hàng rào chờ đón, rước ngài vào nhà thờ. Sau chào đón và thăm hỏi của Đức Tổng Giuse và Linh mục Tổng Thư ký UBBAXH, tất cả cộng đoàn giáo xứ bắt đầu Thánh lễ đồng tế tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ.

Giáo xứ Đồng Chiêm gồm 4 họ đạo (họ Nhà xứ, Bắc Sơn, Phú Cốc, Phú Thanh) với khoảng 3.400 giáo dân, thuộc huyện Mỹ Đức, cách thủ đô Hà Nội khoảng 60km về hướng nam. Chỉ trừ họ Phú Cốc, 3 họ còn lại đều bị ngập, trong đó họ Bắc Sơn là ngập nặng nhất; do Đồng Chiêm là vùng trũng, hầu hết nằm ngoài vùng đê bao của huyện Mỹ Đức. Hằng năm, Giáo xứ Đồng Chiêm đều chịu ảnh hưởng của mưa lũ, nhưng thường chỉ ngập đường làng, chứ không như trận mưa lũ lịch sử 2008 này. Nước mưa ngập tràn nhiều ngày làm cho gia súc, gia cầm chết sạch, đồ đạc trong nhà trôi hết; cá trong ao vì vậy cũng theo con nước mà trôi đi. Con số thiệt hại cho Đồng Chiêm đến nay đã lên đến trên dưới 10 tỷ đồng.

Về việc cứu trợ, theo Lm. Giuse Nguyễn Văn Liên, phó xứ Đồng Chiêm, 2 ngày sau khi xảy ra tình trạng ngập lụt, Đại diện Hội Chữ Thập Đỏ của Thành Phố có xuống xem xét, cứu trợ nhưng chỉ với số lượng thật ít ỏi, tính trung bình mỗi gia đình nhận được 3 gói mì. Còn sau đó thì không thấy cơ quan nào của chính quyền đến nữa. Cho đến nay, việc cứu trợ chủ yếu đến từ phía giáo quyền: Toà TGM. Hà Nội, các dòng, các giáo xứ bạn… gồm mì gói, gạo, mền, quần áo, sách vở, thuốc men… Sự quan tâm này đã làm cho giáo dân Đồng Chiêm vô cùng cảm động. Cha sở Giáo xứ Đồng Chiêm đã chia sẻ: “Ngập lụt có thể cuốn trôi nhân mạng, nhà cửa, tiền bạc, nhưng nó không thể cuốn trôi được tình thương của Thiên Chúa và Giáo Hội, mà cụ thể là các ân nhân đã rộng lượng chia sẻ với giáo dân xứ Đồng Chiêm”.

Vì hôm nay là Ngày Lễ kết thúc Năm Phụng vụ, Giáo Hội long trọng tôn phong Chúa Kitô làm Vua, nên những lời chia sẻ của Đức Tổng Giuse ở đầu lễ, trong bài giảng, cũng như ở cuối lễ, luôn nhấn mạnh đến Vị Vua Tình Yêu. Vị Vua này đến xét xử thế giới với một cách thức thật lạ lùng. Ngài không xét xử người ta về những việc gì lớn lao, mà chỉ xét xử về một điều duy nhất, đó là về tình yêu, tình yêu này thể hiện qua những hành động bác ái của chúng ta đối với những người nghèo, những người bé mọn, cho dù là những hành động nhỏ nhặt nhất, mà lắm lúc chúng ta đã quên sót. Thi hành Đức Bác ái chính là tinh thần của công dân Nước Trời.

Ngài cũng mời gọi mọi người hãy cảm tạ Chúa vì qua cơn ngập lụt này, tuy có những khó khăn, khổ sở và mất mát, nhưng người dân xứ Đồng Chiêm cũng nhận được một trận lụt tình thương đến từ những ân nhân xa gần: từ giáo phận, từ Hội đồng Giám mục, từ các cơ quan quốc tế, từ Toà Thánh… Và ngài nhắn nhủ phải làm sao khi đón nhận được tình thương này rồi, nó phải được nhân lên, phân phát cho những người xung quanh, theo tinh thần tương trợ: người có nhiều giúp người có ít hơn, lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát, ngay cả đối với những người không Công giáo.

Nhân dịp viếng thăm này, Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn cũng thay mặt UBBAXH cầu chúc cho Giáo xứ Đồng Chiêm can đảm vượt qua cơn thử thách này, dù có đau khổ nhưng chúng ta hãy gắn bó với Vị Vua Tình Yêu, chính Người hiểu được thân phận con người của chúng ta, chia sẻ những đau khổ của chúng ta, để từ nỗi thiệt hại của mình, chúng ta lại tiếp tục vươn lên và có khả năng chia sẻ tình bác ái cho người khác. Cha Sơn cũng cho biết UBBAXH đã chuẩn bị nguồn tài chính để hỗ trợ phục hồi cho Đồng Chiêm.

Sau Thánh lễ, Đức Tổng cũng đã có giờ tiếp xúc thân tình với bà con giáo dân, thăm hỏi cha con anh Phêrô Trần Văn Công, chồng của Chị Hân, người đã thiệt mạng tại họ đạo Bắc Sơn trong trận lũ vừa qua. Đoàn cũng được quý Cha dẫn đi thăm và tặng quà, tiền cho một số gia đình vừa nghèo lại vừa nhiễm HIV trong giáo xứ. Hậu quả sau cơn ngập lụt ở Đồng Chiêm đã để lại những căn nhà nhếch nhác, ẩm mốc, ruồi muỗi… Ai có thể ngờ rằng trong một xứ đạo nhỏ thuộc vùng sâu vùng xa như Đồng Chiêm lại có đến 20 gia đình có người nhiễm HIV. Đây là hậu quả của những người đi làm ăn xa, do thiếu hiểu biết nên đã nhiễm phải căn bệnh thế kỷ này. Trong hoàn cảnh nghèo nàn và thiếu hiểu biết như thế, chính những bệnh nhân này cũng không biết cách tự chăm sóc mình và cũng không biết cách để bảo vệ những người thân khỏi lây nhiễm. Nhiều gia đình không đủ tiền để xét nghiệp xem người thân của họ có bị lây nhiễm hay không. Đáng thương nhất vẫn là những đứa con tội nghiệp của họ.

Rời Đồng Chiêm, đoàn theo Lm. Giuse Đào Bá Thuyết đến thăm xứ Gò Mu (thuộc huyện Kim Bôi), và Quèn Danh (một họ đạo của xứ Gò Mu, thuộc huyện Mỹ Đức), là 2 địa điểm Cha đang coi sóc. Giáo xứ Gò Mu đang trong giai đoạn xây dựng, sắp hoàn thành. Còn họ đạo Quèn Danh có thể xem như một “ốc đảo” của Hà Nội. “Quèn Danh” đã nói lên được phần nào cái xót xa như chính tên gọi của nó. Chẳng ai biết cái tên “Quèn Danh” xuất phát từ đâu, bao giờ, nó như tượng trưng cho một địa điểm, cho những dân “quèn”, không được mấy ai quan tâm, ngó ngàng đến. Nó cũng có thể gọi là “vô danh” nếu không được các Cha Dòng Chúa Cứu Thế phát hiện ra vào năm 1988. Chính các Cha đã đến dạy chữ, dạy giáo lý và đưa họ ra khỏi tình trạng “ngợm” để sống cho ra “người” hơn. Còn trước đó, cuộc sống của họ gần như hoang dã, sống quây quần bên nhau, hang động là nhà, nơi thờ tự là tượng Đức Mẹ được treo trên nóc hang. Cứ mỗi độ Giáng Sinh về, các Cha lại cử hành Thánh Lễ Giáng Sinh cho họ ngay trong hang động này. Dần dần các cha cho bắt điện, giúp họ làm nhà ở, rồi xây nhà nguyện ở ven sườn núi đá. Hỏi các em ở đây có biết gì về nơi mình ở hay không thì được cho biết “chúng cháu không biết, khi có trí khôn thì đã thấy mình sống ở đây rồi”.

Đón đoàn vào Quèn Danh là hơn 10 chiếc thuyền nhỏ xíu được gò bằng tôn mỏng manh, có nguy cơ lật úp bất cứ lúc nào. Bình thường nếu không ngập nước, bà con đi lại bằng con đường mòn men theo chân núi đá rồi đi ra con đường đất ra đến đê. Nhưng những lúc ngập lụt như thế này thì họ phải dùng thuyền. Đoàn dừng xe ngày trên bờ đê rồi xuống những chiếc thuyền con mỏng manh tiến vào làng.

Nói là làng cho oai chứ nơi đây chỉ vỏn vẹn 114 nhân khẩu. Cuộc sống của họ vô cùng khó khăn và nghèo nàn. Thu nhập chính chủ yếu dựa vào mảnh đất nhỏ bé mà mỗi năm chỉ làm được một vụ, ngoài ra không có một nghề phụ nào ngoài mò cua bắt ốc để sống qua ngày. Việc học của các em rất khó khăn, do chỉ là một nhóm nhỏ nên không được chính quyền địa phương quan tâm. Những người lớn thì hoàn toàn mù chữ, còn các em nhỏ thì hiện nay chỉ được 2 em có trình độ cao nhất là lớp 6, nhiều em chưa được đến trường.

Sự hiện diện của Đức Tổng Giuse làm cho bà con nơi đây vô cùng cảm động. Điều này vượt ngoài sức tưởng tượng của họ. Ngài đã nói chuyện với họ một cách thân tình ngay trong chính ngôi nhà nguyện bé nhỏ. Ngài động viên họ hãy tiếp tục tin tưởng vào Chúa, tin tưởng vào tình tương thân tương ái của mọi người, trau dồi đời sống đức tin, và ngài nhấn mạnh rằng Giáo Hội, đặc biệt là TGP. Hà Nội, sẽ không quên họ. Ngài cũng nhắn nhủ các bậc cha mẹ ngoài việc mưu sinh, hãy cố gắng cho con cái được đến trường. Việc học hành là điều hết sức cần thiết song song với việc bồi dưỡng đức tin. Ngài hứa Tổng Giáo phận sẽ hỗ trợ hết mình cho việc học tập của các em.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký UB BAXH, và Lm. Giuse Nguyễn Bình An cũng đã trao trực tiếp một số tiền để trợ giúp các em trong việc học tập.

Cha Thuyết, phụ trách họ đạo, đã chia sẻ rằng ước ao lớn nhất của ngài cũng như bà con giáo dân tại “ốc đảo” lúc này là có được một con đường từ nhà ra đến đường đê (với chiều dài khoảng 1.000m) để các em đi học cũng như đi đến nhà thờ xứ Gò Mu được dễ dàng. Hiện họ đã có sẵn đá, có nhân công, chỉ cần được hỗ trợ cát và xi măng. Ước mơ nhỏ nhoi này xem ra cũng xa vời nếu không được sự quan tâm và giúp đỡ của những người hảo tâm.

Bất cứ ai được chứng kiến trực tiếp cuộc sống của những bà con nơi đây chắc chắn sẽ không khỏi chạnh lòng. Thật không thể tưởng được ngay tại TP. Hà Nội lại có những người đang sống cảnh như thế. Chỉ có ra khỏi nhà, ra khỏi nơi an toàn của mình, chúng ta mới biết được còn biết bao những người nghèo đang sống quanh ta đang cần tình thương và sự giúp đỡ cụ thể.

UBTTXH

Mục lục

 

Giáo xứ Phú Trung (Sài gòn) Mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam

Hòa với truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam, hôm ngày 20-11-2008 giáo xứ Phú Trung (Sàigòn)đã long trọng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Thầy cô giáo, cho nền giáo dục nước nhà và tổ chức cho thiếu nhi cùng tất cả người trò, có cơ hội bày tỏ tâm tình biết ơn đối với những người thầy của mình.

Mở đầu Thánh lễ, linh mục chánh xứ Giuse Maria Lê Quốc Thăng đã mời gọi cộng đoàn cùng hiệp ý cầu nguyện cho các thầy cô giáo. Phần phụng vụ Lời Chúa Lc 9, 46-48 “Ai là người lớn nhất trong các môn đệ” đã được tuyên đọc rất phù hợp với tâm tình của ngày lễ 20-11. Sau đó, bài diễn giảng của cha chủ tế đã giúp mọi thành phần dân Chúa hiểu rõ hơn về Tin Mừng Chúa Kitô trong nhịp sống của xã hội. Bài giảng tuy ngắn gọn, nhưng đầy đủ ý nghĩa và khá sâu sắc.

1/ Đối với thầy cô giáo, cha nhấn mạnh đến mối tương quan giữa Thiên Chúa đối với thầy cô qua trung gian là học trò của mình, bởi lẽ Lời Chúa đã nói : "Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy". Chính các em là hiện thân sống động của Chúa Kitô, đón nhận dạy bảo các em nên người không phải là việc bổn phận làm cho xong, nhưng đó chính là cách thế để mỗi thầy cô đón nhận Thiên Chúa là Cha chúng ta vào cuộc sống, vào sự nghiệp giáo dục của mình. Hơn thế nữa, chính niềm tin vào Lời Chúa như thế, sẽ làm cho mối tương quan giữa thầy cô giáo với Thiên Chúa ngày thêm bền chặt….

2/ Đối với các bậc phụ huynh, cha cũng nhắn nhủ và cảnh giác họ trước trào lưu làm hoen ố phẩm giá cao đẹp của người thầy : “…....các phụ huynh hãy nhớ rằng, thầy cô chính là những đồng nghiệp của chúng ta trong việc giáo dục con em thành nhân thành tài, thậm chính là những người thay thế chúng ta (phụ huynh) hình thành nhân cách của con em mình. Do đó, chúng ta cần ý thức vai trò quan trọng của mỗi người (phụ huynh)  để tất cả hãy trở nên những cộng sự đắc lực với thầy cô giáo trong việc giáo dục con em chúng ta.

Tuy nhiên, hiện trạng của xã hội hôm nay với câu nói cửa miệng ”…muốn con hay chữ hãy yêu lấy thầy” đã làm cho làm cho một số phụ huynh đi quá trớn và trở nên thực dụng….…việc biếu xén quà cáp đã dần dần làm mất đi ý nghĩa của ngày lễ, làm cho ngày 20-11 như là dịp để tặng quà mong thầy cô quan tâm, chiếu cố con mình cách đặc biệt, và còn nhiều cách thế khác núp dưới nhiều chiêu bài xem ra rất tốt lành…..Vì thế, các bậc phụ huynh mang danh Kitô hữu, hãy là những nhân tố tiên khởi vực dậy tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo đúng với ý nghĩa ban đầu của nó…..”

 Còn đối với thiếu nhi và những người trò, cha cũng nhắn nhủ, khuyên dạy tất cả hãy thể hiện sự kính trọng và tình yêu mến dành cho thầy cô mình:"....tình thầy trò không chỉ thể hiện trong ngày lễ 20-11 khi cầm cành hoa hay món quà tặng thầy cô, nhưng tâm tình biết ơn ấy phải được thể hiện trong quá trình học tập, phấn đấu nỗ lực rèn luyện bản thân…."

 Những gợ ý chia sẻ của cha chánh xứ trong thánh lễ, đã phần nào bộc bạch nỗi ưu tư của người mục tử về sự ngiệp giáo dục của nước nhà, mà cụ thể là trong gia đình giáo xứ…. Đồng cảm với những ưu tư đó của cha, ban khuyến học đã phối hợp với hội phụ huynh tổ chức ngày tôn vinh thầy cô giáo 20-11 và thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ giáo dục khác.

Kết thúc Thánh lễ, đại diện phụ huynh và thiếu nhi đã nói lời cám ơn thầy cô giáo, tri ân cha chánh xứ cùng với các anh chị giáo lý viên. Những bó hoa tươi thắm đã được trao gởi đến cha xứ và quý thầy cô. Sau Thánh lễ, cha đã mời tất cả thầy cô vào nhà xứ dùng bữa cơm với cha và với ban hành giáo của giáo xứ.

  Tin từ Gx Phú Trung

Mục lục

 

GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

KỶ NIỆM NGÀY THIẾT LẬP HÀNG GIÁO PHẨM VIỆT NAM

 

 

Chiều ngày 24.11.2008, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã đến dâng Thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ Chánh tòa Đàlạt. Do Nhà thờ lớn đang trong thời gian trùng tu nên Thánh lễ được cử hành trong Hội quán của Giáo xứ, tuy không gian nhỏ bé, chật hẹp, nhưng bầu khí thật thánh thiện, sốt sắng và ấm cúng. Thánh thiện, sốt sắng vì mỗi Thánh lễ đều là lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa, nhất là dịp lễ này, tạ ơn Chúa vì đã thương ban cho Giáo hội Việt nam nhiều chứng nhân trung kiên, anh dũng ; tạ ơn Chúa vì biết bao gương sáng của các bậc tiền nhân để lại cho hậu thế. Ấm cúng vì Thánh lễ cử hành trong tình thân gia đình Hội Thánh, khi ghi nhớ và hướng về dịp mừng 50 năm thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt nam…

 

Qua các Bài đọc Lời Chúa, với ý nghĩa của ngày lễ và với sự kiện : hôm nay tại thành phố Nagasaki, một thành phố đã là hứng chịu hậu quả của bom nguyên tử vào đầu tháng 8/1945, Giáo hội cử hành lễ phong Chân phước cho 188 Tử đạo Nhật bản gồm 4 linh mục và 184 tín hữu đã chịu chết vì là kitô-hữu trong thời gian từ 1603 đến 1639, Đức Cha Phêrô chia sẻ cùng cộng đoàn tham dự hai vấn đề :

 

1. Để sống Tin mừng Đức Kitô, để làm chứng nhân cho Người, chúng ta phải chịu bắt bớ, phải chấp nhận từ bỏ chính bản thân mình, như các Thánh Tử đạo Việt nam và các Chân phước Tử đạo Nhật bản, vì : “Việc tử đạo của các ngài làm cho Tin mừng được sáng tỏ và giúp những người không biết Chúa muốn tìm hiểu để biết về Chúa ; cho những người thù nghịch trở nên thiện cảm và khiến mọi người thán phục, kính nể những con người đã trung thành với đức tin, chấp nhận cái chết với tâm hồn tha thứ và trong sự bình an”.

 

2. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm và hướng về 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt nam. Để việc mừng sự kiện trọng đại này mang lại hiệu quả thiêng liêng đích thực, Đức Cha Phêrô mời gọi : “Không chỉ Giáo hội Việt nam hay Giáo phận Đàlạt thân yêu này, mà mỗi cộng đoàn, mỗi Giáo xứ, mỗi gia đình và từng người hãy có một đời sống mới, một đời sống thấm nhuần Tin mừng của Đức Kitô. Muốn làm được việc này đòi hỏi chúng ta phải luôn biết quy hướng về Chúa và sống theo Lời Ngài”, để mỗi ngày chết đi con người cũ theo tính thế gian mà mặc lấy con người mới, con cái Thiên Chúa, con cái của sự bình an, của sự thật và sự sống.

 

Mục lục

                                                                                                                

Nhớ Nguyễn Trường Tộ nhân kỷ niệm 180 năm ngày sinh của Tiên sinh (1828-2008)

Cùng chung giáo xứ chính toà Xã Đoài, giáo họ chúng tôi chỉ cách làng Bùi Chu một con sông. Tuổi thơ của tôi gắn bó với dòng sông, đồng ruộng và cả những tháp chuông xứ Đoài. Những lúc rảnh rỗi, khi đàn trâu được ăn no cỏ và đang tắm mình trong dòng nước mát của dòng kênh Gai hiền hoà, lũ trẻ chăn trâu chúng tôi lại rủ nhau lội qua sông để sang bên kia thăm lăng Nguyễn Trường Tộ. Một lăng mộ được lập ở cuối làng mà nay những hộ dân đã bắt đầu cư trú xung quanh.

Cái thời chăn trâu thơ dại ấy cũng chẳng biết gì ngoài cái mộ mang có tên tuổi một con người được ghi ở mộ chí, chỉ biết ngôi mộ này đẹp nhất ở những làng lân cận, được khảm đá đen đẹp đẽ. Tuổi thơ qua đi, giờ khôn lớn tôi mới biết cái tầm vĩ đại của con người nằm dưới ngôi mộ cuối làng Bùi ngày nào.

Vài hàng tiểu sử

Phaolô Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828 tại giáo họ Bùi  Chu, nay là xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Giáo họ Bùi Chu là một giáo họ có truyền thống lịch sử lâu đời nhất nhì ở giáo phận Vinh. Lịch sử còn ghi lại giáo họ được phát sinh cuối thế kỷ XVII với việc cha Matinô Mật từ Kiên Lao, Nam Định được điều về coi sóc mục vụ giáo xứ Bùi Chu. Bùi Chu trở thành một cứ điểm truyền giáo sầm uất ở Nghệ An. Đất xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt” cùng với truyền thống đạo hạnh của ông cha đã hun đúc trong con người Nguyễn Trường Tộ tấm lòng yêu mến Thiên Chúa, yêu giáo hội, yêu quê hương, đất nước.

Từ thuở nhỏ, Nguyễn Trường Tộ  đã được bố là Nguyễn Quốc Thư cho đi học chữ Nho. Nổi tiếng với tên gọi là Trạng Tộ. Tinh thông Nho học nhưng ông không đi làm quan bởi một lẽ mang danh người Công giáo vả lại ông cũng nhận thấy đường lối khoa cử không còn thiết thực đối với xã hội và đất nước nữa.

Khi Nguyễn Trường Tộ bắt đầu đến tuổi trưởng thành thì cũng là lúc cuộc bách hại đạo đang lên tới mức quyết liệt. Lúc này, giáo phận Vinh được thành lập (1846) trên cơ sở tách ra từ giáo phận Tây Đàng Ngoai và Đức Cha Gauthier Ngô Gia Hậu được cử làm Giám mục tiên khởi. Việc tiếp xúc thân mật với Đức Cha Hậu là một cơ hội thuận lợi để cho ông tiến tới tiếp cận với nền văn minh Phương Tây. Ông đã được mời vào dạy chữ Hán cho Đức Cha trong chủng viện Tân Ấp.


Cuộc bách hại đạo dữ dội nổi lên và chiếu chỉ “phân tháp” là biện pháp tàn bạo đánh vào người Việt Nam công giáo. Đức Cha Gauthier Hậu buộc lòng phải tạm rời xa đoàn chiên dấu yêu của mình. Nguyễn Trường Tộ được  Ngài đưa đi lánh nạn ở Hồng Kông, Singapore, Malaisia, Thuỵ Sỹ, Ý, Pháp và ông có thời gian học tập ở Pari trong vòng 2 năm.


Quãng thời gian bôn ba nước ngoài là thời gian quí báu để ông có thể học hỏi những điều hay chuẩn bị cho công cuộc canh tân sau này. Ông đã cố gắng miệt mài học hỏi những tiến bộ trong văn minh phương Tây với khát vọng đem những cái đó về để thay đổi đất nước theo chiều hướng phát triển.


Năm 1861, ông miễn cưỡng làm chức từ hàn (phiên dịch) cho Pháp và khi đô đốc Bonard đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thì ông không làm cho Pháp nữa. Vì quãng thời gian này mà sau nhiều sử gia đã đánh giá không đúng về con người Nguyễn Trường Tộ.


Ông đã có công trong việc giúp cho dân làng Xuân Mỹ có được mảnh đất mới trù phú tránh được khí độc. Những công trình xây dựng của ông vẫn còn ghi dấu ấn đó là nhà nguyện của dòng Phaolô Sài Gòn (1862-1863), Dinh Giám mục Xã Đoài (1864-1866). Cùng thời gian này, ông đã giúp Tổng đốc An Tĩnh - Hoàng Tá Viêm đào kênh Sắt, một công trình xưa nay nhiều thế hệ Việt Nam chưa làm được. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là bầu nhiệt huyết của ông qua những bản điều trần chứa chan tinh thần yêu nước, vì dân tộc.


Tâm huyết của một đời người


Cả đời của Nguyễn Trường Tộ dành tâm huyết trong 58 bản triều trần dâng lên vua Tự Đức qua Đại thần Trần Tiễn Thành. Những bản điều trần khi nào cũng được vua phê chói lọi nhưng lại nhanh chóng rơi vào quên lãng. Có người từng ví những bản điều trần đó như là tiếng kêu trong hoang mạc của Gioan Tẩy Giả hay là tiếng gà gáy sớm của một giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ khá toàn diện, các nhà canh tân cùng thời đa phần đều lặp lại những vấn đề ông từng đề cập, hầu như đề cập đến mọi vấn đề, ta có thể tựu chung lại ở những vấn đề sau đây:

 

Thứ nhất, ông rất quan tâm đến tình trạng phát triển kinh tế bởi vì kinh tế có phát triển thì đất nước mới vững mạnh (dân giàu nước mạnh). Nói như lý thuyết Xã hội chủ nghĩa thường nói thì Phương Tây hơn hẳn Việt Nam về một phương thức sản xuất, cần làm giảm bớt khoảng cách phân chia này bằng việc quan tâm mở mang công – thương, đẩy mạnh giao thương với nước ngoài, phát triển ngành nghề nông nghiệp truyền thống.

Thứ hai về mặt xã hội, ông đề xuất cải cách phong tục, đề xuất một lối sống mới, chủ trương coi trọng nhân dân, thiết lập các trại tế bần làm nơi cưu mang những số phận bất hạnh. Ông cũng kêu gọi mở mang việc học tập trong toàn quốc kết hợp với việc thay đổi nội dung giáo dục, thay thế chữ Hán bằng chữ quốc âm…

Thứ ba là về việc bang giao với nước ngoài, ông chủ trương liên kết với nhiều quốc gia hùng mạnh để tạo nên mối quan hệ bạn bè với mình. Ông phân tích để triều đình biết lợi dụng những mâu thuẫn trong khối thực dân đế quốc để giành cho mình những lợi ích nhất định. Kết thân với nhiều nước trong tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ cũng tương tự như chính sách “gió chiều nào theo chiều ấy” của Chulalongkon, nhà vua Thái. Một hệ quả tích cực là hầu hết các nước châu Á đều nằm dưới ách thực dân thì chỉ có Nhật Bản và Thái Lan không bị  ai đô hộ cả.


Tôi tin rằng, nếu như được giao phó binh quyền thì  Nguyễn Trường Tộ chắc chắn sẽ trở thành nhà quân sự đại tài. Một nguyên tắc chủ đạo trong nghệ thuật quân sự của ông là  "chủ hoà" nhưng không có tư tưởng "chủ hàng". Ông khuyên triều đình cải tu võ bị, trọng võ trọng văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước... Đồng thời, ông cũng đưa ra những quyết sách hợp lý để thúc đẩy nền quân sự nước nhà tiến lên.


Trong khuôn khổ một bài viết ngắn không thể đề cập hết những tâm huyết mà Nguyễn Trường Tộ đã dày công, miệt mài sáng tạo ngỏ hầu giúp ích cho đất nước, công việc của ông như con ong cần mẫn suốt đời tạo nên mật ngọt cho đời.


Tiếc thay, khát vọng mang lại sự hùng cường cho dân tộc của một tín đồ Công giáo nhiệt thành nơi quê hương xứ Nghệ lại không trở thành hiện thực vì những lý do khách quan và chủ quan.


Gần 140 năm sau ngày mất, nhìn lại con người Nguyễn Trường Tộ


Lịch sử là ông thầy dạy khôn và nó sẽ là người đưa ra nhận xét cuối cùng đối với một nhân vật, một hiện tượng hay một sự kiện lịch sử. Đương thời, Nguyễn Trường Tộ không được vua quan nhà Nguyễn kể cả giới sỹ phu xứ Nghệ coi trọng chỉ vì ông là người Công giáo và đến lúc chết ông phải đau đớn thốt lên:       


“Một bước sa cơ, ngàn đời ôm hận

Quay đầu ngoảnh lại cơ đồ bỗng hóa trăm năm”…


Lịch sử đến nay đã có những nhận xét đánh giá trân trọng những tâm huyết và lòng yêu nước nồng nàn của ông. Ngày nay, giới sử học đều ca ngợi  nhân cách sống và mức độ vĩ đại của những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ đối với đất nước. Cuộc cải cách của Nguyễn Trường Tộ khởi xướng nếu được thực hiện sẽ thay đổi bộ mặt nước ta tương xứng với nước Nhật của Minh Trị Thiên Hoàng hay như Thái Lan thời Chulalongkon. Một nhóm nhân sỹ quê hương đứng đầu là Từ Ngọc - Nguyễn Lân đã cho xây dựng lại ngôi mộ của Nguyễn Trường Tộ. Khuôn viên ngôi mộ được tu bổ sạch đẹp hơn và hiện nay đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hiện nay, nhiều thành phố, thị xã đều có đường mang tên Nguyễn Trường Tộ; không ít trường học mang tên người Công giáo yêu nước này.


Thế nhưng! Trong những năm qua, cùng với sự chống phá Kitô giáo của Giao Điểm, một nhóm thiểu số hải ngoại đang một âm mưu chia rẽ hai tôn giáo với những mục đích chính trị. Họ lần lượt đưa những nhân vật Kitô giáo ra đánh phá với con mắt thiển cận, hẹp hòi. Nguyễn Trường Tộ không nằm ngoài những nhân vật được đưa ra mổ xẻ mà một kết luận được họ đưa ra không dựa trên lịch sử khách quan nhưng nhằm đánh đổ bức tượng đài của một con người đã được ghi khắc trong lòng nhân dân Việt Nam. Tôi còn nhớ một lần đi tham quan kinh thành Huế, một hướng dẫn viên đã đưa ra nghi vấn Nguyễn Trường Tộ một tên “Đại Việt Gian”, lời của anh ta hệt như lập luận của Bùi Kha, Trần Chung Ngọc trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ, thực chất con người và di thảo” được xuất bản tại Mỹ. Thế là cả nhóm sinh viên lớp Lịch Sử chúng tôi đứng lên phản đối buộc anh ta phải lên tiếng xin lỗi. Những thế lực kiểu đó đang rắp tâm “thay trắng đổi đen” hòng cố tình bôi bẩn một người Công giáo yêu nước được cả xã hội thừa nhận nhưng dã tâm của họ đâu có đủ năng lực để làm việc ấy.


Nguyễn Trường Tộ trong tôi


Tạm biệt thời chăn trâu thơ dại bên những dòng sông, cánh đồng, những tháp chuông nhà thờ, tôi lên học cấp hai ở trường làng. Ngôi mộ ở cuối làng Bùi Chu vẫn cuốn hút tôi. Tôi có dịp tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời của một đồng hương lại là đồng đạo khi tiếp cận với những tư liệu viết về ông. Kể cũng thật lạ với hình ảnh một chú bé con lớp 6 lúc nào cũng nghiền ngẫm cuốn“Nguyễn Trường Tộ tiểu thuyết” của tác giả Thanh Đạm hay là “Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo” của Linh mục Trương Bá Cần. Tôi đọc hoài mà không biết chán, khi nào rảnh rỗi lại lấy sách đọc tiếp.


Ở môi trường Đại học, Nguyễn Trường Tộ vẫn là một nhân vật rất cuốn hút tôi. Trong một bài tập khoa học đầu tiên của thời sinh viên tôi chọn ngay đề tài “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề cải cách giáo dục”. Đề tài của tôi được thầy cô giáo trong Khoa Lịch sử đánh giá cao và cho đăng ngay vào Nội san nhà Sử học trẻ. Hiện nay, cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của ông, tôi đều cố gắng tìm về hay là tham dự các buổi hội thảo giới thiệu về thân thế, con người và sự nghiệp của vị tiên sinh họ Nguyễn.


Ông đã ra đi cách đây gần 140 năm nhưng những tư tưởng canh tân đổi mới của ông vẫn mang một giá trị thực tiễn lớn lao. Xã hội hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề có thể áp dụng theo cái nhìn của Nguyễn Trường Tộ. Hôm nay đứng trước mộ cụ ở làng Bùi Chu, xin thắp nén hương lòng của bậc con cháu, một người đồng hương, người đồng đạo kính gửi cụ Nguyễn Trường Tộ. Một con người xứng đáng lưu danh muôn đời vì suốt đời cụ đã:


“Kính Chúa yêu người hằng tạc dạ,

  Trung vua mến nước vốn ghi lòng”...

Antôn Trần Đức Hà

Mục lục

 

ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ CÁC GIÁO PHẬN MIỀN BẮC GIÁO TỈNH HÀ NỘI 2008

BÙI CHU - Sáng Chúa nhật 23.11.2008, tại nhà thờ chính tòa Giáo phận Bùi Chu đã long trọng diễn ra Đại Hội Giới Trẻ Tổng Giáo Phận Hà Nội. Tham dự Đại Hội có Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Giám Mục GP Thanh Hóa kiêm giám quản GP Phát Diệm; Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, GP Bùi Chu; Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương, GP Hưng Hóa; Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, GP Bắc Ninh; gần 70 Linh mục cùng khoảng 7000 nghìn bạn trẻ đến từ 10 giáo phận và các giáo hạt GP Bùi Chu.

Đại Hội Giới Trẻ tại GP Bùi Chu tiếp nối mục đích và ý nghĩa của các kỳ Đại hội diễn ra tại Thái Bình 2002, Phát Diệm 2003, Hà Nội 2004, Thanh Hoá 2005, Vinh 2006, Hải Phòng 2007. Đại Hội mang chủ đề "Anh em sẽ nhận được Thánh Thần, khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân cho Thầy" (Cv 1,8), đây cũng là chủ đề của ĐHGT thế giới diễn ra tại Syney tháng 7.2008 vừa qua.

Đúng 7 h 30, sau lời giới thiệu của Linh mục Giuse Trần Hưng Đạo; Đại Hội chính thức khai mạc với diễn văn chào mừng của Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, Giám Mục GP Bùi Chu. Đức Cha Giuse nhấn mạnh đến những kết quả mà Đại hội mang lại đối với mỗi người; Đại hội đã thổi đến mọi người tham dự ngọn gió trẻ trung, tươi mát khi được hoà mình vào các hoạt động của giới trẻ. Trong lúc đó, Thánh giá và cờ Đại hội từ từ rước ra sân nhà thờ chính toà trong tiếng trống, tiếng kèn rộn vang. Hàng ngàn cánh tay giơ lên và tiếng vỗ tay vang lên chào đón Thánh giá Chúa. Thánh Giá đã trải qua một chặng đường dài lần lượt đi qua các giáo xứ thuộc hạt Phú Nhai, Đại Đồng, Quần Phương, Lạc Đạo, Tương Nam, Tứ Trùng đến hôm nay đã trở về Giáo xứ chính toà, ngôi nhà thờ cổ kính nằm bên bờ dòng sông Ninh Cơ lịch sử. Chính tại vùng đất Bùi Chu này vào năm 1533, nhà truyền giáo đầu tiên Inêkhu đã đặt chân lên Trà Lũ (Phú Nhai) và Ninh Cường.

Bài ca chủ đề Đại Hội Giới Trẻ năm nay "Bước chân Giêsu, tình yêu Giêsu" được cất lên khi diễn văn chào mừng vừa kết thúc. Các bạn trẻ thuộc 10 giáo phận tay trong tay, khoảng cách không gian được xoá nhoà thay thế bằng tình cảm anh em trong Chúa thật nồng thắm. Những vũ điệu, lời ca như nối kết tất cả các bạn làm một. Màu áo da cam của hơn 300 tình nguyện viên hoà lẫn màu áo xanh của giới trẻ Bắc Ninh, áo trắng tinh tuyền của giáo phận Vinh, Thái Bình. ..tạo nên khung cảnh đa sắc màu của Đại hội.

Xen lẫn với hoạt động sôi nổi của các bạn trẻ dưới sự hướng dẫn của các tình nguyện viên là việc tìm hiểu những vấn đề đang nhức nhối hiện nay. Thời gian buổi sáng được tập trung thảo luận một số vấn đề liên quan đến giới trẻ hiện nay như tình yêu và lối sống, đời sống đức tin công giáo, giáo dục xã hội, tình dục và vấn đề nạo phá thai. Đại hội cũng giành thời gian lắng nghe sứ điệp Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gởi giới trẻ thế giới nhân đại hội lần thứ 23.


Kết thúc phần thảo luận diễn ra nghi thức sám hối và suy tôn Thánh Giá. Đây là giây phút lắng đọng dành cho những suy tư của giới trẻ. Những tâm tình với Chúa Giêsu bên cạnh cây thánh giá của Ngài. Bị đóng đinh lên Thánh giá là hình phạt khổ nhục nhất trong xã hội La Mã xưa kia. Cây Thánh giá của Chúa mang thêm một sứ điệp khác là tình yêu của Chúa gửi đến nhân loại. Đó cũng là lời mời gọi của Thầy Giêsu hai ngàn năm trước, hôm nay Thánh giá Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi làm chứng nhân cho Ngài trong một xã hội đã nhiều đổi thay, đã phát triển nhưng bên cạnh đó sự dối trá và tội lỗi đang lan tràn. Và đời sống người trẻ không chỉ là những sôi động, bóng nhoáng bề ngoài mà phải đi sâu vào trong tâm hồn tạo nên tình yêu mến Chúa Kitô, lòng thương người. Bổn phận của giới trẻ là phải ra đi, tiếp tục làm chứng cho sự hiện diện của Đức Kitô trong xã hội hôm nay. Phần diễn nguyện diễn ra sinh động trên nền hoạt cảnh của anh em sinh viên giáo phận Bùi Chu.

Buổi chiều cùng ngày diễn ra sinh hoạt văn nghệ chào mừng Đaị hội của các bạn trẻ 10 giáo phận. Nội dung các tiết mục xoay quanh các chủ đề về Chúa Thánh Thần (Giáo phận Vinh với "Chứng nhân thần khí", Bắc Ninh với "Niềm vui trong Chúa Thánh Thần", Hưng Hoá với "ngọn nến Thánh Thần"), niềm vui họp mặt ( GP Hà Nội với nhạc phẩm "Từ khắp phương trời", Lạng Sơn với vũ điệu Giã hai), niềm tin và đời sống ( GP Bùi Chu với vũ khúc"Ngài gọi con đi", GP Phát Diệm với "Gieo mầm tin yêu - Sống đạo hôm nay", Thái Bình với vũ điệu "Nước Thiên Chúa", Hải Phòng với "Lên đường cùng người-Vụ gặt" )...

Một nội dung không thể thiếu của mỗi kỳ Đại hội là Thánh Lễ bế mạc và trao đón Thánh Giá bắt đầu từ lúc 15h30. Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương đã thay mặt GP Hưng Hoá đón nhận Thánh giá. Giáo phân Hưng Hoá là một giáo phận rộng lớn 54,352 Km2 trải dài trên địa bàn 9 tỉnh, thành phố. Giáo phận Hưng Hoá hân hạnh đón mừng Đại hội giới trẻ Tổng Giáo Phận Hà Nội năm 2009 và theo dự định, Đại hội lần VIII sẽ được tổ chức tại tỉnh Phú Thọ nơi có đông giáo dân Công giáo.

Đại Hội Giới Trẻ kết thúc trong niềm vui sướng của các bạn trẻ. Giờ chia tay cũng là lúc hoàng hôn buông xuống. Tạm biệt mảnh đất Bùi Chu với chặng đường 475 lịch sử đón nhận Thánh giá Chúa Kitô, hẹn gặp lại tại Đại Hội Giới Trẻ 2009 tại Giáo phận Hưng Hoá.

Antôn Trần Đức Hà

Mục lục

 

Thông báo về ngày Đại Lễ Khai Mạc Năm Thánh Đức Mẹ TàPao

Tòa Ân Giải Tối Cao đã ban sắc lệnh cho phép Giáo Phận Phan Thiết được tổ chức Năm Toàn Xá nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày khánh thành và làm phép tượng đài Đức Mẹ TàPao (8/12/1959- 8/12/2009).

Năm Thánh Đức Mẹ TàPao 2009 là dịp để Giáo Phận bày tỏ lòng tri ân và cảm tạ Thiên Chúa vì những hồng ân mà Ngài đã ban cho Giáo Phận qua Đức Maria, đồng thời là dịp để cổ vũ lòng yêu mến Chúa, Đức Mẹ và Giáo Hội.

Giáo Phận sẽ khai mạc Năm Thánh tại Trung Tâm TàPao, vào ngày 08/12/2008 và kết thúc vào 8/12/2009.

1- Chương trình lễ khai mạc:

a- Đêm diễn nguyện: 19g00 đến 22g00 đêm 07/12/2008.

b- Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh: 8g00 sáng 08/12/2008.

2- Lịch Hưởng ứng Năm Thánh 2009

(dành cho các giới vào các ngày 13 tại trung tâm hành hương Đức Mẹ TàPao )

Tháng Giêng: Các Linh Mục.

Tháng Hai: Liên Tu sĩ.

Tháng Ba: Gia Trưởng.

Tháng Tư: Legio

Tháng Năm: Bà Mẹ Công Giáo

Tháng Sáu: Thiếu nhi.

Tháng Bảy: Giáo lý viên.

Tháng Tám: Giới trẻ, Ca đoàn.

Tháng Chín: Lễ sinh

Tháng Mười: Phan Sinh, các Dòng Ba, Têrêxa.

Tháng Mười Một: Hội Đồng Mục vụ các Giáo Xứ.

3- Các lễ hành hương để lãnh ơn toàn xá:

- Các ngày 13 trong tháng tại Trung Tâm TàPao,

- Các lễ Mân côi, Vô Nhiễm, Mẹ Thiên Chúa, Truyền tin, Mẹ Thăm Viếng, Mẹ Lên Trời, Sinh nhật Đức Mẹ, tại các nhà thờ: Chính Tòa, Long Hà, Võ Đắt, Thanh Xuân, Hiệp Đức.

4- Phục vụ khách hành hương:

a) Bí tích: Có các linh mục thường xuyên ban bí tích Sám Hối tại Trung Tâm.

a) Vận chuyển: trên các tuyến tại Trung Tâm TàPao, có xe buýt phục vụ ngày đêm trong các ngày 07 và 08/12/2008.

b) Ăn uống: Trung tâm phục vụ nước giải khát miễn phí, các quán ăn do các Đoàn thể bán với giá phục vụ.

Xin Anh Chị Em sốt sắng tham dự cử hành Năm Thánh để lãnh ơn Toàn Xá trong dịp đặc biệt này.

Văn Phòng Tòa Giám Mục Phan Thiết.

Lm Giuse Hồ Sĩ Hữu

Mục lục

Hội Bác Ái giáo xứ Thánh Tâm giáo phận Banmêthuột kỷ niêm 20 năm ngày thành lập  (1988-2008)

Lể mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, bổn mạng Hội Bác Ái giáo xứ Thánh Tâm giáo phận Banmêthuột. Lúc 19g30 ngày 22 tháng 11 năm 2008, Lm. Quản xứ Đaminh Hà Duy Khâm đã long trọng chủ tế thánh lễ tạ ơn kỷ niêm 20 năm ngày thành lập Hội Bác Ái, hội chuyên lo hậu sự, phục vụ mai táng. Với sự tham dự của đông đảo các ban ngành, hội đoàn trong giáo xứ và giáo dân.

Trước Thánh lễ có nghi thức:

- Dâng hương tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam

- Cầu nguyện cho các linh hồn trong giáo xứ đã qua đời.

- Cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ Thánh Tâm.

- Rước kiệu di hài các Thánh Tử đạo Việt Nam.Trong bài giảng, Linh mục chủ tế đã nhấn mạnh lý do mừng kính các Thánh Tử đạo VN, không chỉ dừng ở việc rước sách, tôn vinh các Ngài bề ngoài, nhưng quan trọng hơn cả là mọi người phải bắt chước gương sống Đức Tin của các Ngài, các Ngài đã sống gương mẫu, đạo đức trong đời sống thường ngày, noi gương Đức Giêsu các Ngài sống khiêm nhường, nhịn nhục và tha thứ,Các Ngài đã giữ vững Đức Tin và truyền lại Đức tin ấy cho các thế hệ.

Đồng thời toàn thể Giáo hội cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam những chứng nhân Đức Tin anh dũng.

Nhân dịp này Hội Bác Ái nhìn lại 20 năm qua: khi đất nước Việt Nam còn trong thời kỳ bao cấp, nhiều gia đình công giáo gặp nhiều khó khăn khi phải lo hậu sự cho người quá cố. Trước thực tế này cha Antôn Vũ Thanh Lịch nguyên quản xứ giáo xứ Thánh Tâm, có sáng kiến quy tụ một số thanh niên nhiệt tâm thành đội ngũ mai táng theo tinh thần”Tám mối phúc thật” và đặt tên cho nhóm là Hội Bác Ái, do ông Vũ Hữu Khuyến làm trưởng, cha long trọng giới thiệu hội trước cộng đoàn giáo xứ vào ngày lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam năm 1988, và nhận các Ngài làm bổn mạng của hội. Hai mươi năm qua, hội đã mai táng cho hàng ngàn tín hữu đã qua đời. Nhờ sự quan tâm của các cha quản xứ và nhất là nhờ sự tận tụy dìu dắt, hướng dẫn của ông Vũ Hữu Khuyến, Hội đã phục vụ như một đội ngũ chuyên nghiệp, thao tác công việc nhịp nhàng. Những “đô tùy” gồm bác sỹ, giáo viên, thương gia, chủ đồn điền và cả những tài xế xe thồ.Họ đã không quản ngại thời gian, vất vả, dù là ngày lễ, Tết. Họ phục vụ theo Tin Mừng Bác Ái của Chúa Kitô. Ngoài việc tẩm liêm, di quan… họ còn giữ nhiệm vụ quản lý và chăm sóc nghĩa trang. Vài năm gần đây họ đảm nhận việc chôn cất thai nhi, do các bà đạo đức trong giáo xứ thu gom từ các bệnh viện. Noi gương Thày Chí Thánh họ đã không những cúi xuống rửa chân mà còn bồng ẵm thân xác Chúa Kitô hiện thân trong thân phận yếu đuối của con người.

Hôm nay kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hội Bác Ái, mừng kính lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam, như một lời quyết tâm, họ tiếp tục trung thành với sự chọn lựa của mình, kiên trì trong công việc phục vụ như những chứng nhân của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay.

Anh Thư

Mục lục

 

Những hoạt động mừng lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam tại Huế

Huế, Việt Nam ( 28-11-2008) --Trong các ngày từ 23 đến 24-11-2008. Các Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân thuộc giáo phận Huế, đã có những hoạt động mừng kính Các thánh Tử đạo Việt Nam, diễn ra nhiều nơi bằng Thánh lễ, học tập về năm thánh Phaolô và đại hội huynh trưởng Thiếu nhi Thánh thể toàn giáo phận.

Tại Giáo xứ Gia hội (Hạt thành phố Huế)

Đức giám mục phụ tá Giáo phận Huế đã chủ sự Thánh lễ Kính các Thánh tử đạo Việt Nam. Trong Thánh lễ, ngài đã ban Bí tích Thêm sức, Mình Thánh Chúa và chứng nhận nghi thức Tuyên xưng Đức tin cho hơn 100 thanh thiếu nhi giáo xứ Gia Hội -Huế

Đồng tế với đức cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, có cha Phêrô Phan Xuân Thanh quản xứ Gia Hội, linh mục Gioanbaotixita Nguyễn Minh Sang, bề trên Dòng Chúa Cứu Thế Huế, linh mục, Bartholomeo Nguyễn Quang Anh, giáo sư Đại chủng viện Huế, linh mục Phanxicô Xavie Hồ Văn Uyển, quản lý Toà giám mục, và gần 500 giáo dân tham dự Thánh lễ.

Đây là cơ hội để các em nhận bí tích, trở thành công dân trong vương quốc Đức Kitô, Đức cha phụ tá Huế, căn dặn các em trước khi ngài ban các bí tích cho các em, ngài nói:’’ai không dám xã thân phục vụ người bất hạnh, thì họ không được công nhận là môn đệ của Đức Kitô’’.

Cùng ngày, đức cha phụ tá Huế về thăm giáo xứ Phù Lương cách Huế 10 cây số về phía Nam, nơi được chọn làm ngày tĩnh tâm cho các huynh trưởng Thiếu nhi Thánh thể thuộc Liên đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam.

Tại giáo xứ Phù Lương (hạt Hương Phú)

Hơn 250 huynh trưởng, đến từ 26 xứ đoàn thuộc giáo phận Huế, đã kéo về nhà thờ Phù Lương để tham dự ngày hội huynh trưởng gồm Thánh lễ, nghe nói chuyện về kỹ năng lãnh đạo, thăng cấp và phát chứng chỉ.

Từ khi được phục hồi vào năm 2004 với 20 đoàn viên đến nay 2008, phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Huế đã tăng trưởng và lan rộng khắp giáo phận Huế với 4.000 đoàn viên, gần 300 huynh trưởng các cấp

Linh mục Đôminicô Phan Phước, đặc trách Thiếu nhi giáo phận Huế cho biết, các anh chị được huấn luyện về kỹ năng lãnh đạo đoàn thể, trong các khoá có tên là Sa Mạc, được các hiệp đoàn, tín nhiệm bầu làm trưởng để làm gạch nối liên kết các xứ đoàn với các thiếu nhi trong giáo phận Huế.

Giảng trong thánh lễ, Linh mục Lê Quang Hoà, tuyên uý Thiếu nhi, xứ đoàn Nhất Đông nói:’’các huynh trưởng là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa, qua sự truyền bá Đức Tin cho các em như các thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, đã hy sinh mạng sống để truyền rao Đức tin và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh.

Trước khi tuyên thệ thăng cấp, các huynh trưởng niệm hương trước bàn thờ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hứa sống đạo tốt, làm chứng Tin Mừng bằng cầu nguyện, rước lễ, hy sinh, làm việc bác ái tông đồ và cố gắng rèn luyện bản thân, trau dồi khả năng của mình để phục vụ cho các em Thiếu nhi có hiệu quả.

Tại Trung Tâm Mục vụ Huế.

Lớp học về Thánh Phaolô, lần đầu tiên tổ chức cho các thành viên hội đồng giáo xứ, nhằm giúp học viên hiểu, đọc và sống Kinh Thánh trong các gia đình và giáo xứ trong năm Thánh Phaolô, lớp Kinh Thánh do ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, một chuyên gia Kinh Thánh đến từ giáo phận Sài Gòn hướng dẫn.

 

Đức tổng giám mục Huế Têphanô Nguyễn Như Thể, đã tham dự từ đầu đến cuối, cùng Đức cha phụ tá với 20 linh mục và hơn 750 tu sĩ và giáo dân đến từ 5 hạt thuộc giáo phận như Quảng trị, Hải vân, Hương Quảng Phong, Hương Phú, và Thành phố Huế.


Được biết từ đầu năm 2008 đến nay, Ban giáo dân giáo phận Huế đã tổ chức nhiều khoá đào tạo Kinh Thánh cho giáo dân như khoá học về Sách Xuất Hành, Thánh Maccô, Thánh Phaolô nhân kỷ niệm 2000 năm sinh nhật Thánh nhân.


Các học viên, sau khi học sẽ cảm thấy thích thú đọc Kinh Thánh nhiều hơn, bằng 8 phương pháp: Nghe, Đọc, Suy gẫm, Cầu nguyện, Chia sẻ, Học hỏi, Giảng dạy và Sống Lời Chúa.

Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo

 

Thánh lễ cầu nguyện cho việc bảo vệ sự sống tại Hải Phòng

 

HẢI PHÒNG - Ngày 20-11 vừa qua, Cha Gioan Baotixita Vũ Văn Kiện đã cùng với một số thành viên tham gia việc bảo vệ các thai nhi và chôn cất thai nhi. Trong thánh lễ còn có sự hiện diện của Anh em ứng sinh, Nhóm Ve Chai nhân ái Hải Phòng, đây công việc làm mà Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên giám mục Giáo phận Hải Phòng đã khởi sự từ hơn một năm qua.


Vào những ngày này, cách đây hơn một năm về trước, Đức Cha Giuse đã mời gọi một số chị em cộng tác trong công việc chôn cất những thai nhi, công việc đó vẫn được tiến hành cho đến này.


Hiện nay tại thành phố Hải Phòng, số người phá thai ngày một nhiều hơn, đặc biệt các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân, cũng như vì kinh tế, hoàn cảnh gia đình hay công việc xã hội mà nhiều bà mẹ đã bỏ đứa con vô tội của mình.


Trong bài chia sẻ Cha Gioan Baotixita đã nói lên án tình trạng nạo phá thai đang diễn ra thật khủng khiếp, cha đã đọc những vần thơ là cho mọi người tham dự phải rơi lệ.


Tôi không biết, em là trai hay gái

Tiếng kinh buồn, cất tiếng gọi thai nhi

Có ngày tử, khi ngày sinh chưa đến

Buộc chào đời, bằng cái chết oan khiên…

Tôi muốn biết, những điều em muốn biết

Tội lỗi nào đã tạo tác tử sinh

Những lời kinh, rời đôi môi tắt nghẹn

Ngọn nến hồng, chưa kịp sáng lung linh…


Cha Kiện và mọi người đã dâng lời cầu nguyện cho những bạn trẻ, những người cha mẹ luôn biết tôn trọng mần sống mà Thiên Chúa đã ban cho và mỗi người có trách nhiệm phải tuyên truyền việc bảo vệ những thai nhi bị giết hại.


Thánh lễ được khép lại với lời hát kinh hoà bình của mọi người được cất lên, mọi người vẫn tin vào tình thương của Chúa đón nhận những người con vô tội hưởng vòng tay yêu thương của Chúa trong nhà Cha Trên Trời. Xin Chúa tha thứ và chữa lành cho những anh chị em đã gây ra những thảm cảnh tước sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người.

 

Thanh Hát

Mục lục

 

 

Giáo họ Tràng Tiền (Nam Định) mừng lễ Cách Thánh Tử Đạo

Giáo Họ Trang Tiền thuộc giáo xứ Trang Hậu, xã Nam hải, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thuộc giáo phận Bùi Chu là một giáo họ rất nhỏ bé, chỉ có 128 người, nằm sát cạnh giáo xứ Trang Hậu mà có một nhà thờ riêng rất khang trang, đẹp đẽ với một mộ các Thánh Tử Đạo để hài cốt 5 Tôi Tớ Chúa, người của giáo họ. Nhờ sự hối thúc và dâng cúng của ông Vũ Khánh Thành và một số bà con khác, ngay từ đầu năm 1990 đã làm lại thánh đường kính Thánh Gioan Tiền Hô, bổn mạng của Giáo Họ và xây lại mộ 5 vị Thánh của ngôi làng nhỏ bé xa xôi hẻo lánh này.

Nhờ xây lại rất sớm, công trình xây dựng đã không tốn kém là bao so với giá hiện nay. Một gương cần cù hy sinh vì Chúa vì giáo họ thí dụ như của cụ VŨ ĐÌNH TRIỆU (1901 – 1996), có con cháu đi được nước ngoài gửi tiền về biếu cụ lúc tuổi già, cụ vẫn dè sẻn chi tiêu. Lúc cụ qua đời còn mấy chỉ vàng, cũng dâng cúng cho giáo họ. Thí dụ nhỏ bé đó cũng nói lên tinh thần và lòng đạo đức của giáo dân Việt Nam miền Bắc, dù khó khăn gian khổ cũng luôn luôn giũ vững niềm tin của mình.

“Trang Tiền liền Trang Hậu” và “Trang hậu là cậu Trang Tiền” là câu nói của trẻ em hồi còn bé đã nói lên sự kết nối chặt chẽ giữa Giáo Họ Trang Tiền và Giáo Xứ Trang Hậu. Chính vì sự gắn bó này mà có nhiều người đặt câu hỏi tại sao hai họ quá liền nhau, quá ít người mà phải làm một nhà thờ Trang Tiền riêng như vậy. Có phải là do óc địa phương, lòng ghen tị mà ra không, kiểu như ai đã vào miền Nam, đi dọc theo Quốc Lộ 1 vùng Hố Nai, tỉnh Biên Hoà cũng thấy san sát toàn là nhà thờ.

Thực ra gốc ngọn của việc này không ai biết được vì không được truyền tụng hay ghi trên giấy để con cháu đời sau biết rõ ngọn ngành. Có lẽ Giáo Họ Trang Tiền đã được ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa cho 5 tôi tớ Chúa tuẫn tiết vì đạo mà các cụ thời xưa đã xây nhà thờ nhỏ bé kính thánh Gioan Tiền Hô và vinh danh các anh hùng tử đạo. Hậu duệ của các ngài đã đóng góp cho Giáo Hội Việt Nam cũng 5 Linh Mục và Tu Sĩ là:

1. Linh mục VŨ THANH TÙNG, chánh xứ Văn Hải, Bà Rịa Vũng Tàu,

2. Linh mục VŨ ĐÌNH TÂN, bang Iowa Hoa Kỳ,

3. Linh mục VŨ CHÍ THIỆN, dòng Phanxicô, Đức Quốc,

4. Thầy VŨ ĐÌNH HUYẾN, hoạ sĩ, dòng Đồng Công, Thủ Đức,

5. Nữ Tu VŨ THỊ LIÊN, Hiệu Trưởng, dòng Trinh Vương, Thủ Đức.


Về Xã Hội, Giáo Họ Trang Tiền cũng sinh ra được hai người con yêu quí là VŨ THỊ KIM LOAN, Tiến Sĩ Sử Học, Giáo Sư Đại Học San Diego California và Giáo Sư VŨ KHÁNH THÀNH, Cao Học Triết, Phụ Khảo cho Giáo Sư Triết Gia Kim Định. Ông Thành còn là Giám Đốc sáng lập Hội An Việt tại Vương Quốc Anh, Cựu Nghị Viên Thành Phố Biên Hoà (1970-1974) cựu Nghị Viên Việt Nam đầu tiên tại Âu Châu tham gia chính quyền thành phố Hackney London (2002-2006) và đã được Nữ Hoàng Anh ban tặng Bảo Quốc Huân Chương (2006).

Ngày 24 tháng 11 năm 2008 vừa qua là ngày đặc biệt của Giáo Họ Trang Tiền, sau thánh lễ là viếng mộ các thánh tử đạo, tổ chức liên hoan cũng là ăn mừng lần thứ hai Giáo Xứ Trang Hậu vừa khánh thành nhà thờ lớn, sau 9 năm ròng rã đã tự xây dựng thành công. Bà con đã vất vả, nhất là các chị em phụ nữ, sau ngày làm việc cho bản thân và gia đình trong thời buổi khó khăn này, còn hy sinh nung gạch “đội đất đến độ rụng hết cả tóc” mà vẫn cố công! Không mừng sao đuợc khi Giáo Xứ và Giáo Họ đã có Linh Mục Nguyễn Văn Đàm ở luôn với giáo xứ sau nhiều năm thiếu vắng Linh Mục. Nhờ ngài chạy đôn chạy đáo, vất vả ngược xuôi, đôn đốc, xin tiền … mà ngôi thánh đường đồ sộ đã hoàn thành. Ngoài nhà thờ, còn nhà xứ, hội trường, hang đá Đức Mẹ trên bờ hồ … công việc vẫn còn ngổn ngang mà tiền không có. Vô duyên nhất là các con đường đất dài từng cây số, rất hẹp, xuống cấp, ngập bùn và lỗ hổng, dẫn đến giáo xứ và các làng bên cạnh, đáng lý là nhiệm vụ của chính quyền địa phương phải lo cho dân, nhưng cũng chẳng ai đoái hoài đến. Thật khổ cực cho những vùng xa vùng sâu không ánh mặt trời. Mọi việc lại do Linh Mục chánh xứ phải tự lo liệu !!!

Ngày đại lễ này còn hiệp thông và cầu nguyện cho Tổng Giáo Phận Hà Nội với việc Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và giáo xứ Thái Hà bị vu khống bách hại, đàn áp.

VINH DANH CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM

VÀ RIÊNG 5 TÔI TỚ CHÚA CỦA HỌ TRANG TIỀN ĐÃ GHI TRONG SỬ SÁCH CỔ XƯA NHƯ SAU:

Năm 1900 Die 10 Septembris

Tôi là Đôminicô Bỉnh làm thầy cả coi địa phận Thạch Bi thay mặt Đấng Vít Vồ tôi vâng phép Đấng Vít Vồ mà cải hài cốt 5 Đấng về họ Trang Tiền đã chịu tử vì đạo đời Vua Tự Đức. Một là ông Đôminicô Huynh. Hai là ông Phêrô cố Tính. Ba là ông Đôminicô Tuyên. Bốn là ông Phêrô Quang. Năm là ông Phêrô Phú. Bởi Nhà thờ họ nhà xứ Trang Hậu mà đưa về họ Trang Tiền, cùng táng ở nơi đất thuộc về họ ấy. Vậy khi cải lên nơi hài cốt ông Cựu - Huynh thì tiểu chẳng còn, song hài cốt hãy còn nhiều, mà thẻ thiếc khắc tên thì còn rõ không hồ nghi. Còn 4 ông nọ thì tiểu cũng nát hết mà hài cốt đã nát nhiều, và thẻ chẳng còn, cho nên phải thử máu cho được biết hài cốt thuộc về ông nào, mà đã có lẽ đủ cho được nhận thật là hài cốt về các đấng ấy. Vậy tôi đã sang tiểu mới. Ông Cựu Huynh và ông cố Tính tiểu bằng gỗ tốt, mà ông Tuyên, ông Quang, ông Phú tiểu bằng sành, tiểu ngoài bằng gỗ mỏng thường vậy. Cả 5 thẻ đều làm bằng gỗ lim tốt. Người khắc chữ An-nam tên Thánh tên gọi các Đấng ấy, mà bỏ vào tiểu làm một với hài cốt các đấng ấy. Đoạn táng đặt thứ tự thế này. ông Cựu Huynh hàng trên còn 4 ông một hàng dưới, bắt đầu tự bên bắc, thứ nhất là ông cố Tính, thứ hai là ông Tuyên, thứ ba là ông Quang, thứ bốn là ông Phú, mà giở về phía tây, chân giở về phía đông, mồ ấy ở bên Nam nhà thờ họ ấy. Khi táng thì có người họ ấy là ông trùm Nghĩa, ông trùm Miêng, ông lý Sự và đồ hào làm chứng kiến, và cũng có đông người trong 2 họ ấy - xem thấy nữa tư lưu từ.

Làm tờ này tại nhà xứ Trang Hậu ngày 18 tháng 08 An-nam năm Canh Tý


Die 11 Septembris 1900

Sacerdos Dominicus Bỉnh ký


-------
Hiện nay Hài cốt của các Ngài đã được di chuyển vào lăng mộ được làm bằng đá và được đặt ở sân cuối Nhà thờ giáo họ rất đẹp và trang trọng.


Bà con xa gần, nếu có lòng, xin giúp đỡ Giáo Xứ Trang Hậu. Xin liên lạc với:


Linh Mục Nguyễn văn Đàm

Nhà thờ Trang Hậu, xã Nam hải, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Email: jos.nguyenvandam33@yahoo.com.vn

Vũ Tộc

Mục lục

 

 

Làng phong Tam Hiệp: Bốn mươi năm nghĩa tình

Nếu có dịp ghé qua Khu phố 5 – Phường Tam Hiệp, bạn sẽ nhìn thấy ngôi làng của các bệnh nhân phong. Một ngôi làng Làng nhỏ bé lọt tỏm giữa Tp. Biên Hoà rộng lớn. Đây là nơi cư ngụ và sinh sống của hơn 140 hộ gia đình bệnh nhân phong. Năm nay, làng phong Tam Hiệp kỷ niêm 40 năm thành lập. Làng phong đã trải qua biết bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng người bệnh vẫn một lòng tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của mọi người. Tôi muối gói gém câu chuyện 40 năm về Làng Phong trong bài viết này bằng hai chữ “nghĩa tình”.


1. Tình yêu thuở ban đầu


Nếu tình yêu của hai người được phát xuất từ những cuộc gặp gỡ đầu tiên, thì lịch sử về làng phong Tam Hiệp cũng có thể ví được như thế. Người già ở đây kể lại rằng, vào năm 1968 có 10 gia đình bệnh nhân phong và 8 gia đình tật nguyền khác quy tụ lại ở thôn Tấn Minh – xã Thanh Giản - Tp. Biên Hoà, thuộc giáo xứ Đa Minh, để định cư và sinh sống. Không ai bảo ai, chính tình yêu của những người đồng cảnh ngộ đã quy tụ họ lại với nhau, nương tựa nhau để sinh sống.


Vì phải mang trên mình căn bệnh dễ bị xa lánh, nên đời sống những ngày đầu của họ rất bấp bênh, nếu không muốn nói là bi đát trong một vùng xa xôi hẻo lánh này. Nghề “cái bang” là phương cách sinh sống duy nhất của họ. Trong một xã hội đâu đâu cũng có tiếng súng nổ, bom rơi, thì cuộc sống của những người bình thường còn khốn đốn huống chi là đời sống của những anh chị em bệnh nhân phong. Nhưng nhờ “tình tương thân tương ái”, họ cố bám trụ ở đây và tiếp tục cuộc sống. Họ đã sẵn sàng chia nhau miếng cơm, manh áo và cả những nỗi đau của kiếp nhân sinh. Thế rồi, tình cờ một vài người trong số họ gặp được một tu sĩ dòng Phanxicô trong chuyến hành khất từ Đình Phong Phú về, người tu sĩ đó là thầy Lê Trọng Nhung. OFM, người mà ngày nay người làng Tam Hiệp vẫn quen gọi một cách thân thương là cha Nhung.


Kể từ cuộc gặp gỡ tình cờ đó, thầy Nhung đã tới thăm người cùi ngày càng nhiều hơn. Cảm thương trước những cảnh đời éo le và bất hạnh, thầy đã xin phép nhà Dòng đứng ra bảo bọc chở che đời sống cho họ. Thầy đã chạy vạy và gõ cửa nhiều người và xin sự viện trợ của Dòng để chữa bệnh cho người phong, lo cho họ có gạo, mì để sống qua ngày. Kể từ đó, thầy trở thành chổ dựa tinh thần cho họ. Tình yêu thương của thầy trở thành động lực lớn nhất để những người bệnh phong an tâm và đón nhận sự đau đớn của bệnh tật và cuộc sống nghèo khổ. Cha con làng phong Tam Hiệp đã đồng lao cộng khổ với nhau nhiều năm trời, nhất là những tháng ngày “mịt mờ” sau ngày giải phóng Miền Nam năm 1975. Nhưng nhờ tình yêu thương của Thiên Chúa và sự giúp đỡ của nhiều tổ chức và ân nhân, họ vẫn tồn tại và ngày một ổn định hơn về đời sống tinh thần và vật chất


Đến nay khi nhớ lại thuở hàn vi ấy, bệnh nhân Nguyễn Văn Vui đã nghẹn ngào tâm sự: “Câu chuyện đã xẩy ra lâu lắm rồi, nhưng tôi không thể nào quyên, đến lúc nhắm mắt cũng mang theo. Buổi chiều Giáng Sinh năm 1968, ông thầy đèo lên 20 kí gạo và 15 kí khoai mì chia cho anh em mừng Lễ Giáng Sinh (lúc đó có 185 bệnh nhân). Cha con nhìn nhau không ai cầm được nước mắt, hoàn cảnh đói khổ nhưng anh em cảm nhận được món quà đầy áp ân tình”. Đúng thế, chỉ tình người mới có sức mạnh tạo nên một cộng đoàn yêu thương trong khói lửa của chiến tranh và tình yêu ấy có nhiều cơ may để lớn lên.


2. Làng phong Tam Hiệp lớn lên trong tình yêu.


Theo quy luật thường tình thì sau khi vượt qua những khó khăn ban đầu, tình yêu của con người mới có thể trưởng thành và sâu sắc hơn. Điều này rất đúng với làng phong Tan Hiệp. Hôm nay, khi đặt bước chân tới làng phong, chắc rằng ai cũng ngỡ ngàng vì sự thay da đổi thịt của nó. Nhưng có ai biết chăng, đàng sau những gì đang có là cả một nỗ lực không mệt mỏi trong nhiều năm của Cha con thầy Fidel Nhung.

Với mục tiêu thoát nghèo và hoà nhập với cuộc sống của xã hội, cha con làng phong Tam Hiệp đã nỗ lực rất nhiều với sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của nhiều ân nhân trong và ngoài nước. Nhờ thế, căn bệnh hiểm nghèo của người phong được đẩy lùi. Hiện nay làng không còn bệnh nhân phong nào. Nhưng hậu quả của căn bệnh vẫn còn đó trên đôi tay, đôi chân tàn phế của nhiều bệnh nhân. Tuy thế, sự nổ lực của cha con đã đưa đời sống kinh tế của các gia đình bệnh nhân đi lên mỗi ngày.


Cho đến nay làng không còn gia đình bệnh nhân nào thiếu ăn, thiếu mặc. Họ đã có nhà gạch, nhà tôn để ở, phần lớn là nhà tình nghĩa do ân nhân và chính quyền địa phương xây tặng. Đến năm 1982 làng đã có đường rộng và bê tông hóa; năm 1994 làng phong có điện và đời sống của họ thay đổi nhanh chóng. Năm 1996-1998, cha con đã xây được hai dãy nhà dưỡng lão cho các cụ ông và cụ bà ở. Những người bệnh mất khả năng lao động trong nhà dưỡng lão này được hưởng trợ cấp hàng tháng của thành phố. Còn những bệnh nhân lành lạnh và con em họ đã tự tìm công ăn việc như chạy xe ôm, ba gác, làm trong các công ty xí nghiệp, nhờ thế đời sống kinh tế của các gia đình ngày càng ổn định hơn.


Đời sống giáo dục ở làng phong là ưu tiên hàng đầu của cha con thầy Nhung. Ngay từ những năm đầu thầy đã quan tâm đến việc học hành của con em bệnh nhân phong. Thầy chia sẻ: “Đi đôi với việc xoa dịu nỗi đau bệnh tật của người phong, chúng tôi cũng tính đến chuyện xóa nỗi đau mù chữ mù nghĩa cho trẻ em và lên kế hoạch trồng người từ rất sớm”. Kể từ đó thầy mở các lớp học bổ túc lo xóa mù chữ cho trẻ em. Sau đó, thầy đã xây trường tiểu học và mời thầy cô ở ngoài vào dạy chữ cho các em. Khi xong chương trình tiểu các em được chuyển lên học ở các trường của nhà nước. Thế là phong trào học tập của làng ngày càng phát triển. Hiện nay làng có hơn 300 em học sinh từ lớp 1-12 và có 3 em đang theo học đại học. Các em học sinh là niềm hy vọng cho tương lai của làng phong.


Bên cạnh đó, chúng ta thấy đời sống đạo của làng phong cũng được mở ra. Cho đến nay, làng phong đã trở thành một giáo họ, với ngôi nhà nguyện khang trang và xinh đẹp, phục vụ cho đời sống đạo. Thầy Nhung cũng đã xin các cha và thầy ở Học viện Phanxicô giúp làm lễ cho bà con và dạy giáo lý cho thiếu nhi hàng tuần. Nhờ sự hiện diện của các cha, các thầy tinh thần đạo đức của anh chị em làng phong ngày càng sâu sắc hơn.

Công lao gieo vãi 40 năm của cha con thầy Nhung giờ đây đã bắt đầu cho hoa thơm quả ngọt. Đây là niềm vui không chỉ riêng của bà con Làng Phong Tam Hiệp, nhưng là của nhiều người, nhiều tổ chức đoàn thể đã yêu thương và quan tâm đến họ trong suốt thời gian qua.


Đến đây, chúng ta có thể ví câu chuyện về Làng Phong Tam Hiệp như một câu chuyện tình, được thêu dệt bằng biết bao nghĩa tình của nhiều trái tim yêu thương. Những gì làng có được hôm nay như những hoa quả tốt đẹp được kết tinh từ những giọi mồ hôi vất vả của cha con thầy Nhung và sự quãng đại giúp đỡ của nhiều tổ chức và ân nhân. Nhưng trên hết, chúng ta cùng hiệp thông với anh chị em giáo dân Làng Phong Tam Hiệp cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Ngài đã thương ban cho những người con bé nhỏ của Ngài trong suốt hành trình đã qua.


Cầu chúc các anh chị em ở làng phong Tam Hiệp bước sang một giai đoạn mới trong trang sử mới của làng được Thiên Chúa chúc lành, anh chị em ân nhân tiếp tục nâng đỡ và có một đời sống tốt đời đẹp đạo, hòa nhịp với đời sống chung của Giáo Hội và xã hội.

 

Quang Huyền

Mục lục

 

Nhóm Bác Ái: 'Tình thương mến thương' viếng Đất Thánh Đồng Nhi

SAIGÒN - Nhân tháng Các đẳng linh hồn, nhóm "Tình thương mến thương" gồm các Anh Chị Em từ các giáo xứ khắp nơi (Thánh Mẫu, Cầu Kho, Chợ Đũi, Bình Triệu, Tân Phước, Chánh Toà Cần Thơ, Bàn Cờ, Vườn Chuối, Fatima, Phaolô (Tên Lửa). ...) cùng nhau tổ chức chuyến hành hương về viếng Đất Thánh Đồng Nhi và gắp gở chia sẻ vui chơi cùng các em Mồ côi khuyết tật trường Vi Nhân (Ban Mê thuột) Vinh Sơn 1, Vinh Sơn 2 (KonTum), Trại Phong (KonTum), và các em khuyết tật mồ côi tại Pleiku. .. trên vùng đất Tây Nguyên xa xôi. Với những đóng góp, hy sinh, việc làm. .. của mọi người để dâng lên Chúa cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn.


Lời Chúa: "Anh em đừng quên làm việc thiện, giúp đở lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế." (Dt 13,16)


Chuyến công tác được thực hiện từ ngày 21 - 23/11/2008 và đã thành công tốt đẹp nhờ ơn Thiên Chúa và sự cầu bàu của Mẹ Maria.


Lạy Chúa ! xin cho chúng con ý thức rằng tất cả những gì chúng con có được: Tinh thần cũng như vật chất đều là của Chúa ban. Xin cho chúng con luôn biết quãng đại để trao lại cho những ai cần đến chúng con giúp đở. Xin cho chúng con được niềm vui mỗi khi chúng con mở rộng để chia sẽ cho người khác vì biết rằng chúng con đã làm được việc đẹp long Chúa. Amen.


Nguyễn Văn

Thánh lễ trao ban thừa tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ tại ĐCV Sao Biển Nha Trang

Sáng ngày 24/11/2008, tại nguyện đường Đại Chủng Viện Sao Biển Nha Trang, Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Giám Mục phó Giáo phận Nha Trang, đã trao ban Thừa Tác Vụ Đọc Sách cho 88 thầy, và trao ban Thừa Tác Vụ Giúp Lễ cho 30 thầy đang theo học các lớp thần học II, lớp thần học IV và lớp Thần Học Đặc Biệt, khóa III. Với sự chấp thuận của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám Mục Giáo Phận Đàlạt, trong dịp này, 27 thầy thuộc Giáo phận Đà Lạt gồm 21 Chủng Sinh và 6 Thầy thuộc Tu Hội Tận Hiến đang theo học lớp Thần Học Đặc biệt, khóa III, tại Đại Chủng Viện Sao Biển Nha Trang, đã được lãnh nhận Thừa Tác Vụ Đọc Sách.

Trong thánh lễ trao ban Thừa tác vụ, Đức Cha Giuse Võ Đức Minh đã nói lên tầm quan trọng của hai Thừa Tác Vụ này. Là những người có cơ hội gần gũi phục vụ Bàn Thờ và Công bố Lời Chúa, các thừa tác viên được mời gọi sống tích cực điều mình lãnh nhận. Hướng tới việc trở thành người loan báo và giảng dạy Lời Chúa, các Thừa Tác Viên Đọc Sách được kêu gọi tiếp xúc với Lời Chúa trong tinh thần đức tin, chuyên cần suy niệm và cầu nguyện.

Với tâm tình yêu thương và trách nhiệm của một người Cha trong Giáo phận, trong ngày này, Đức Giám Mục Giáo phận Đàlạt đã gửi thư thăm hỏi và nhắc nhở các thầy ý thức tạ ơn Thiên Chúa về muôn vàn hồng ân mà Thiên Chúa đã thương ban cho các thầy. Các thầy phải làm cho các ơn ấy triển nở trong môi trường sống và tu luyện của mình. Các thầy cũng được nhắc nhở phải ghi nhớ điều Hội Thánh nhắn nhủ : “Hãy lãnh nhận Sách Thánh và trung thành truyền đạt Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người.”

Hướng về công tác mục vụ của Giáo phận trong tương lai, Đức Giám Mục còn ân cần nhắc nhở các thầy ý thức rèn luyện nhân cách của mình. Đức Cha nói : “Các thầy hãy uốn nắn con tim mình nên giống trái tim dịu hiền – khiêm nhường của Thầy Chí Thánh (x. Mt 11,28-30), luôn tập luyện để biết cởi mở và lắng nghe, biết đón nhận và cộng tác.” Hiệp cùng Giáo phận trong bầu khí hướng về Năm mừng Kim Khánh thành lập Giáo phận (24/11/1960 – 24/11/2010), Đức Cha mời gọi các thầy xây dựng cộng đoàn “yêu thương và phục vụ”, chuyên tâm “đào sâu và thi hành giáo huấn của Hội Thánh, đặc biệt trong những gì liên quan đến cử hành phụng vụ là sức sống của dân Chúa.” Đức Cha còn nhắn nhủ các thầy phải luôn ý thức rèn luyện tinh thần truyền giáo theo như lời Đức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng : “Con người thời đại… muốn nhìn thấy các chứng nhân.”

Trong tâm tình hiệp thông và chia sẻ, chúng ta hãy đồng hành và cầu nguyện cho các thầy, cách đặc biệt trong giai đoạn các thầy còn đang được đào tạo tại Đại Chủng Viện, để sau này các thầy trở thành “những mục tử như lòng Chúa mong ước” và những “thợ gặt lành nghề” cho Giáo Hội.

http://www.simonhoadalat.com/

Mục lục

 

 

Di sản tinh thần của Cha Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa: Tử đạo hôm nay là sống đời yêu thương bác ái

I. Đôi dòng tiểu sử

Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại làng Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ngài là con thứ ba trong bảy người con ông Phaolô Vũ Đình Tân và bà Maria Nguyễn Thị Hoan. Lên tám tuổi, cậu Khoa được học chữ Hán, rồi tiếp tục học thêm với hai linh mục Hòa (Hoan) và Phương. Nhận thấy cậu có trí thông minh, tính tình hiền lành và có ý dâng mình cho Chúa, hai cha đã gửi cậu vào học tại tiểu chủng viện Hướng Phương và sau đó là chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định), dưới sự giáo huấn của cha chính Jeantet Khiêm. Năm 1820, thầy Khoa được lĩnh chức linh mục.

Với  nhiệt tình của người thanh niên 30 tuổi, cha Vũ Đăng Khoa được bổ nhiệm làm phó xứ Bạch Bát (Ninh Bình), Trung Hòa (Thanh Chương), Kẻ Đông (Hà Tĩnh), rồi phụ tá cho cha Vinsentê Nguyễn Thời Điểm, coi sóc hai xứ Lũ Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố Chính (Quảng Bình). Trong thời gian chín năm làm phụ tá, cha Khoa đã hăng say trong nhiệm vụ, học hỏi thêm trong nhiệm vụ chủ chăn. Nhờ có đời sống đạo đức và niềm nở với mọi người, cha đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Năm 1829, Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Giữa (Quảng Bình). Về nhận xứ mới, cha Khoa đã vận dụng hoàn cảnh thuận lợi, khiến cho công tác mục vụ ngày càng tiến triển không ngừng. Trong những công việc bận rộn của giáo xứ, cha vẫn giữ được nét trang nghiêm, nói năng điềm đạm, nhất là luôn quảng đại, nhân từ, nên được mọi người kính nể và yêu mến.

Ngày 06.01.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ toàn quốc: Lùng bắt các  giáo sĩ nước ngoài cũng như bản xứ, kể cả các tín hữu, triệt hạ các thánh đường và các cơ sở tôn giáo. Nhất là sau chiếu chỉ thứ ba ban hành ngày 25.01.1836, cha Khoa phải thay đổi chỗ ở luôn để có thể tiếp tục công tác mục vụ trong hai năm liền (1836 - 1838). Mặc dù hoàn cảnh bất lợi và nhiều hiểm nguy, cha vẫn an vui vì thấy mình đang sống như Chúa Giêsu xưa “cáo có hang, chim có tổ, nhưng Con Người không chỗ gối đầu”.

Người môn đệ của Chúa Kitô đâu ngờ mình sắp được chia sẻ con đường khổ nạn theo chân Thầy Chí Thánh. Đó là đêm 02.07.1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn, hạt Bố Chính thì một văn nhân tên là Tú Khiết đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với thầy giảng Đức và Khang. Sau đó Tú Khiết tra gông vào cổ, giải tất cả các ngài lên Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày 10.07.1838.

Tại công đường Đồng Hới, quan tra vấn cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ cha bỏ đạo và khai báo chỗ ở của linh mục thừa sai Candalh Kim. Quan ra lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần, nhưng quan vẫn chẳng khai thác được điều mong đợi. Không thành công trong việc tra khảo cha Khoa, quay sang hai thầy giảng Đức và Khang. thầy Khang khai báo sao đó, khiến quan tìm ra nơi trú ẩn của thừa sai Cao và cha Điểm. Ít lâu sau, hai vị này cùng bị bắt giam chung với cha Khoa (31.07).

Quan tiếp tục thi hành nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin cha Khoa cùng các vị khác. Là linh mục, là chủ chăn, làm sao lại có thể chối Chúa được, cha Khoa cương quyết đi trọn con đường khổ nạn. Các quan thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha. Các quan đệ án vào kinh đô xin nhà vua phê chuẩn cùng với án trảm quyết thừa sai Cao và án xử giảo cha Điểm. Từ đó ba chiến sĩ đức tin mong đợi ngày vinh quang sắp tới, phó thác đời mình qua tay Đức Mẹ.

Ba vị linh mục hàng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài “Ave Maria Stella” kính chào Mẹ Maria, là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con”. Mấy ngày đầu vi chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương các linh mục như xưa Mẹ đã dâng Con Yêu Quý trong đền thờ, nay cũng xin Mẹ hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc.

Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gửi tới, đặt ngài làm Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du.

Vua Minh Mạng châu phê bản án và ban lệnh thi hành. Ngày 24.11.1838, quân lính áp giải cha Khoa, Đức cha Cao và cha Điểm đến pháp trường ngoài thành Đồng Hới. Tấm thẻ ghi án của cha Khoa viết: “Đạo trưởng Vũ Đăng Khoa, bất khẳng quá khóa, phải xử giảo”.

Đến nơi chỉ định, cha quỳ xuống cầu nguyện. Lý hình tròng dây vào cổ cha. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi vị anh hùng đức tin nghẹt thở và lịm dần. Với 48 tuổi đời và 18 năm linh mục, cha Phêrô Khoa đã thi hành trọn vẹn chức vụ linh mục của mình: Hòa với của lễ vô giá là Đức Kitô, cha hiến tế chính mạng sống mình để dâng lên Thiên Chúa Cha, Đấng hằng yêu thương nhân loại.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Phêrô Vũ Đăng Khoa lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh cùng 116 vị khác.

Đại lễ mừng kính Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa


24/11/2008 - Từ rất sớm, trên các ngã đường dẫn đến Thuận Nghĩa, chúng tôi thấy có nhiều nhóm người từ các giáo xứ trong giáo hạt đổ về quảng trường mang tên thánh nhân. Thánh lễ bắt đầu từ 8 giờ 30, Đức Cha Phaolô Maria chủ sự và 30 linh mục trong và ngoài giáo hạt đồng tế. Khoảng hơn 10 ngàn giáo dân thuộc giáo hạt Thuận Nghĩa và những giáo xứ khác ngoài hạt đã về tham dự thánh lễ, dâng lời cầu nguyện với Cha Thánh Phêrô. Số người đông đảo chiếm đến 2/3 quảng trường rộng 14.200m2. Cả một biển người với muôn màu áo dập dờn trong bầu khí se lạnh của tiết trời mùa đông gợi cảm giác hân hoan ngập tràn và dâng lên một niềm tự hào về sức sống của một giáo hạt vững mạnh về nhiều mặt.

Lễ phát phần thưởng cho các đơn vị giáo xứ, cho các em học sinh đạt giải trong kỳ thi cấp giáo phận và giáo hạt vừa qua diễn ra trước lúc cử hành Thánh Lễ mừng Thánh quan thầy của giáo xứ, đã cho chúng ta hình dung được rõ nét về diện mạo của giáo hạt vốn có truyền thống đi đầu trong các phong trào học giáo lý và nhiều hoạt động khác làm khơi dậy sức sống của giáo hạt và giáo phận. Cha Phêrô Trần Phúc Chính quản xứ và quản hạt Thuận Nghĩa là một linh mục có đời sống đạo đức, nhiệt thành và năng nổ trong công tác mục vụ. Ngài đã lập nhiều hội đoàn và các hội đoàn đều "nối mạch" được với chính nguồn để luôn được tiếp thêm nguồn bổ dưỡng tạo nên sự bền vững dài lâu và đi vào thực chất hơn trong đời sống đạo. Ngài thường liên hệ với các Cộng đoàn nhà dòng ở Miền Nam để mời các cha các thầy về trực tiếp giảng dạy, huấn luyện cho con em trong giáo xứ, bồi dưỡng thêm kiến thức giáo lý và thực hành đời sống đạo. Dòng ba Phan Sinh và huynh đoàn Phan Sinh tại thế, Gia đình Thánh Tâm, Hội Têrêxa… là những nhân tố chính thúc đẩy nhiều phong trào giáo xứ đi lên. Người viết bài này liên tưởng đến tổ chức xã hội dân sự trong sinh hoạt chính trị của đời sống xã hội: giá mà Nhà nước biết xây dựng xã hội dân sự để lấy đó làm một kênh phản biện cho các chính sách quản lý Nhà nước thì tốt biết mấy. Xã hội dân sự không là đối trọng với Nhà nước, không là cái bóng của Nhà nước, nhưng nó cùng với thị trường tạo nên một tam giác đều bộ ba Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự để làm vững mạnh hơn cho đời sống xã hội thông qua ba chức năng: Tư vấn, phản biện và giám định. Dĩ nhiên Giáo Hội không rập theo một cơ cấu chính trị nào, nhưng phương cách hoạt động và quản lý thì đều có một lộ trình rõ ràng và có cơ sở khoa học của nó, vì Giáo Hội cũng gồm những con người mang đầy khuyết tật đang trên đường lữ hành cần phải được thanh luyện thường xuyên, và vì thế một sự liên hệ mang tính bổ túc trong cách thức quản lý vẫn không hề mang tính khập khiểng. Giáo xứ Thuận Nghĩa đã thực hiện rất tốt điều này thông qua các Hội đoàn, các tổ chức trong giáo xứ. Tuy nhiên, sự liên hệ này không hề đồng nhất giữa tổ chức xã hội dân sự và các Hội đoàn tôn giáo. Mỗi cơ cấu mang một sắc thái khác nhau nhưng có mục đích chồng lên nhau, gặp nhau ở điểm cùng phục vụ con người.

Trước Thánh Lễ và lễ phát phần thưởng giáo lý, đoàn rước Nhập Lễ nối từ xứ đường Thuận Nghĩa ra đến quảng trường Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa dài khoảng hơn 500m. Chỉ những thành phần "ưu tuyển" trong giáo xứ và đoàn linh mục, các Thầy, các Xơ đã xếp trọn trong hành trình này. Đầu đoàn rước là Thánh Giá, đã đến quảng trường mà con thuyền chở Bằng khen giáo lý hạng nhất cấp Giáo phận trao cho giáo hạt mới bắt đầu khởi hành. Quý vị sẽ hình dung ra được lượng người đông đảo đến dường nào. Đức Cha Phaolô đã gọi đây là một ngày lễ giỗ tổ, vị đại anh hùng của giáo xứ Thuận Nghĩa đã được suy tôn lên bậc hiển thánh. Đền thánh lưu giữ hài cốt của Ngài đã trở thành điểm đến cho những cuộc hành hương về mạn Bắc giáo phận Vinh, nơi những tâm hồn, những cõi lòng "tan nát", nơi những người đau ốm tật nguyền… tìm đến mà cầu xin Ngài ban ơn.

 

Giảng trong Thánh lễ, Đức Cha Phaolô đã nói với một chất giọng tha thiết và đầy cảm phục gương các vị anh hùng tử đạo nói chung và cha Thánh Phêrô nói riêng, Đức Cha đã kêu gọi mọi người hãy một lòng trung kiên với Giáo Hội, noi theo các Thánh tử đạo, noi theo cha Thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa: Chúng ta là con cháu các Thánh tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội luôn phát triển tốt đẹp, chúng ta không được quên đó là kết quả của những dòng máu đào hào hùng của cha ông chúng ta đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải luôn tưởng niệm đến công lao to lớn của các bậc tiền nhân để gìn giữ và phát huy bằng cách nghe tiếng gọi của các Ngài và khám phá ra bài học cao quý để áp dụng vào đời sống của mình; "Là con cháu của Cha Thánh Khoa, chúng ta có quyền tự hào về mình, về xứ sở mình và quan trọng là phải biết noi gương Ngài để sống đạo cho tốt, yêu thương nhau, giúp nhau tiến mạnh trên đường sống đạo tử tế". Ý nghĩa của tử đạo là làm chứng, tử đạo bằng máu là một cơ hội không phải lúc nào cũng có diễm phúc đón nhận được, nhưng chết đi cho chính con người phàm tục với những khuynh hướng xấu mỗi ngày để nỗ lực sống chứng tá đức tin là việc làm có thể đối với mọi người, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Tử đạo thời nay mang một chiều kích khác, nếu trước đây là cái chết thể xác, nỗi đau thể xác, sự hành hình nơi thân xác, thì tử đạo hôm nay là dám nói không với bao quyến rũ của cuộc sống xa hoa, của những êm ái dịu ngọt như đang dìu ta vào mê cung hưởng thụ; tử đạo hôm nay là khước từ hùa theo sự dả dối để tìm một chút lợi lộc trong cơ cấu nào đó của tổ chức xã hội. Và như chủ trương của một chính sách bách hại bằng "bàn tay nhung", rất êm ái nhẹ nhàng là: Muốn đẩy lùi được những ước mơ về thiên đường hư ảo ở thế giới bên kia, thì con người phải từng bước xây dựng một “thiên đường” có thực trên thế gian. Đó là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,… Chỉ có thông qua quá trình đó, thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội”. Giới trẻ hôm nay có can đảm khước từ những mời gọi đi tìm thứ thiên đường ấy không? Tử đạo hôm nay là vậy. Để thay vì tìm thiên đường theo lối cải tạo xã hội bằng cách lấp đầy cái bụng và điểm tô suy tôn những nét đẹp gợi dục, người trẻ có cách làm chứng hữu hiệu nhất là sống bác ái yêu thương, và đây là di sản tinh thần mà cha thánh Phêrô đã để lại cho chúng ta trong gia sản thừa kế của Ngài.


Có thể nói được rằng chất lượng dạy và học giáo lý của giáo hạt Thuận Nghĩa trong năm qua đã nói lên đầy đủ ý nghĩa về một vùng đất thấm máu của "người con" quê hương - cha Thánh Pet Khoa. Ngày nay, tử đạo là can đảm chấp nhận bỏ lại hết những lời mời gọi của bao thú vui, thoát ra khỏi hấp lực của một bộ phim hay, một buổi sinh nhật bạn, một đêm liên hoan nào đó… để đến trường học giáo lý. Giữa một xã hội thượng tôn những giá trị vật chất, xem thường những giá trị đạo đức tôn giáo chân chính, thì người trẻ lại cần hơn bao giờ hết làm chứng cho niềm tin của mình và đó là một dạng thức tử đạo. Nhà cầm quyền đang khai thác những dị biệt trong tư tưởng và trong cung cách hành xử, những người nắm quyền hoạch định lộ trình cho "bản đồ tư duy" của con người, bị hằn sâu não trạng phân biệt kỳ thị phân định ta-địch của thời chiến, đã phóng chiếu vào xã hội những khác biệt trong dân chúng, tiếp tục đào hố sâu ngăn cách và khơi dậy lòng hận thù, mà kỳ thực, xét đến cùng thì chẳng có khác biệt nào ngoài những khác biệt trong tâm trí con người chúng ta, được khai thác cho mục đích chính trị thấp hèn, vì tất cả chúng ta là con một Cha. Để thực hiện được Ý Cha dưới đất cũng như trên Trời đó là lời mời gọi liên lỉ đối với hết thảy mọi Kitô hữu. Tuy nhiên, Luật Trời và lòng người gặp nhau, sự khúc xạ ấy đã phần nào làm biến dạng Ý Cha. Vì thế, tính đa dạng và khác biệt là một tất yếu trong xã hội con người, do đó thực hiện lý tưởng nên một là chỉ có bằng cách phải tôn trọng cái khác nơi người khác, nếu không chúng ta sẽ thấy sự hiện hữu của tha nhân là địa ngục, nói như một triết gia hiện sinh, và "con người là phi lý, là nôn mửa, là đam mê và vô duyên". Đây cũng là ý chính trong bài diễn văn khai mạc buổi phát phần thưởng giáo lý của cha Phêrô Trần Phúc Chính, quản hạt Thuận Nghĩa. Ngài nói về sự khai thác những khác biệt trong nhiên giới rồi áp dụng trong đời sống xã hội là một lối hành xử hạ đẳng nhất, thấp hèn nhất. Bắt đầu từ những quan sát thực nghiệm, thấy sự đối lập trong thế giới tự nhiên, trong sự vật vật chất rồi khái quát thành một triết thuyết áp dụng vào đời sống xã hội con người là đầu mối gây nên những xung đột, gây nên chiến tranh, hận thù, khủng bố...


Sau Thánh lễ là nghi thức rước hài cốt của Cha Thánh về đền thờ của Ngài. Như được múc lấy sức mạnh từ dòng máu tử đạo của Người Đồng Hương, tinh thần hy sinh và niềm tự hào của người Thuận Nghĩa bừng lên trong giờ phút long trọng này. Đoàn rước được xếp hàng hai kéo dài hơn một cây số từ quảng trường đến Đền Thánh.


Long trọng, sốt sắng và trang nghiêm là những gì mà người tham dự thấy được, cảm nhận được trong đại lễ mừng kính Thánh tử đạo Phêrô Vũ Đăng Khoa ngày 24/11/2008.

 

Giuse Trần Văn Học

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Lời Chủ Chăn tháng 12.2008

Giáo dục kitô giáo và công cuộc phát triển đất nước

1. Anh chị em thành viên gia đình giáo phận thân mến, sau thời gian hơn mười năm cùng với anh chị em đồng hành cùng dân tộc trong Thành phố nầy, tôi muốn chia sẻ cùng anh chị em suy nghĩ, lo âu và hy vọng của tôi đối với công cuộc phát triển đất nước, với ước mong mọi người ý thức và nỗ lực đưa vào đời sống những giá trị bắt nguồn từ Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, nhắm góp phần làm cho công cuộc phát triển đất nước hôm nay ngày càng thêm vững bền.

Sức mạnh thúc đẩy công cuộc phát triển hôm nay

2. Có lẽ từ nhiều thập niên qua, hoàn cảnh nghèo khổ và lạc hậu sau chiến tranh cũng như đời sống hưởng thụ và duy vật chất ngày nay, khiến nhiều thành phần xã hội xác tín rằng: đồng tiền có sức mạnh vạn năng, là giải pháp cho mọi vấn đề. Qua thông tin của báo chí và của dư luận quần chúng, xem ra niềm tin đó ngày càng phổ biến, và đồng tiền, vốn là một đầy tớ tốt, đã trở thành ông chủ ác nghiệt, đã gặm nhấm lương tâm, lòng tự trọng và nhân phẩm, xói mòn ý thức tôn trọng chân lý và công lý. Trong bối cảnh đó, công cuộc phát triển đất nước đòi hỏi người người ý thức củng cố niềm tin chân chính, một niềm tin vừa có sức lành mạnh hoá đời sống gia đình và xã hội, vừa có sức thúc đẩy xây dựng nền tảng vững bền cho công cuộc phát triển đất nước hôm nay.

Bí quyết của sự phát triển

3. Lịch sử phát triển xã hội loài người xuyên qua các chế độ và các nền văn minh tự cổ chí kim để lại cho hậu thế bài học vô giá nầy: Bí quyết của sự phát triển đất nước cũng như con người không phải là gươm giáo, súng đạn, không phải là bạo lực, chiến tranh và khủng bố, cũng không phải là quyền lực, thế lực và tài lực, song là niềm tin vào chân lý và công lý, niềm tin vào tình huynh đệ, sự hoà hợp trong cộng đồng dân tộc cũng như hoà bình trong thế giới hôm nay. Chân lý và công lý, tình huynh đệ và hoà bình, đó cũng là những giá trị được Giáo Hội của Chúa Kitô truyền dạy như là những giá trị nền tảng cho sự phát triển vững bền xã hội loài người.

Nếu kiến thức khoa học kỹ thuật là phương tiện, thì niềm tin vào những giá trị nền tảng là sức mạnh cho công cuộc phát triển đất nước. Khi chỉ có kỹ thuật mà thiếu những giá trị nền tảng cho đời sống xã hội, thì sự phát triển để lại những tiêu cực và tệ nạn xã hội, đồng thời thiếu tính vững bền. Trong công cuộc phát triển, con người là cùng đích, quyền lực, thế lực và tài lực là công cụ, những giá trị nền tảng là nền móng mang tính vững bền.

Xây đắp nền móng phát triển vững bền

4. Chân lý. Thiên hạ trong trời đất xưa nay đều ý thức và xác tín rằng sự sống và nhân phẩm, tự do và nhân quyền, là bẩm sinh, là thiên phú. Tín đồ các tôn giáo tin rằng đó là quà tặng của Đấng Tạo Hoá Chí Tôn trao cho loài người để quản lý vũ trụ tạo vật vì sự sống, phẩm giá và hạnh phúc lâu dài của con người, của gia đình và xã hội loài người. Đó là chân lý về sự hiện hữu của loài người trên trái đất. Đó là chân lý về nhân quyền, về tự do, về sự bình đẳng giữa người với người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, giàu nghèo, chính kiến. Các bản Hiến Chương, Hiến Pháp, Tuyên Ngôn trên thế giới xưa nay đều đã ghi nhận chân lý khách quan đó. Dựa trên Lời Chúa dạy, người công giáo tin rằng Đức Giêsu là hiện thân của Chân Lý tròn đầy.

Nếu chân lý là điều phản ánh thực tại vô hình, như nhân phẩm và nhân quyền, công lý và tình huynh đệ, thì sự thật là điều phản ánh thực tại hữu hình, như sự kiện, biến cố, cuộc sống con người và xã hội. Chức năng của các cơ quan truyền thông xã hội là thông truyền trung thực chân lý và sự thật, nhằm tạo niềm tin, củng cố những mối quan hệ xã hội lành mạnh. Khi truyền thông không trung thực với chân lý, hoặc bóp méo, cắt xén, thêu dệt sự thật, nhằm biến chân lý và sự thật từ điều phản ánh thực tại thành điều có lợi riêng cho bản thân hoặc cho phe phái, khi đó, thay vì làm cho mọi người tin tưởng và liên kết với nhau, thì trái lại truyền thông xói mòn niềm tin và làm cho con người nghi kỵ lẫn nhau, làm xấu đi những mối quan hệ trong cộng đồng xã hội.

5. Công lý. Công lý là điều phù hợp với đạo lý và công ích, công bằng là điều đúng với lẽ phải. Đạo lý và lẽ phải đều đòi hỏi mọi người ý thức tôn trọng sự sống và nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền cũng như các quyền tự do và quyền tư hữu của mọi thành phần trong cộng đồng xã hội. Tài sản, chức quyền, địa vị, là lớp vỏ bọc ngoài, có thể khác nhau về mức độ, cấp bực, song nhân phẩm và nhân quyền, mang tính bẩm sinh, thì như nhau ở nơi mọi người, do đó cần được tôn trọng và đối xử bình đẳng với nhau.

Công lý và lẽ phải đều đòi hỏi giới hữu trách tạo cơ hội đồng đều cho mọi người giàu nghèo phát huy tiềm năng và phẩm giá của mình. Đồng thời tạo thuận lợi cho mỗi người học biết tôn trọng chân lý và công lý, tình huynh đệ và hoà bình. Không có được những cơ hội thuận lợi đó, con người không phát huy được khả năng sống trung thực, lương thiện, phục vụ cho công ích. Con người đó chỉ biết làm theo mệnh lệnh, hoặc chỉ biết chạy theo cơm áo gạo tiền bằng mọi giá và mọi cách, cả cách dối trá, xảo quyệt, lừa gạt, hoặc bạo lực, áp bức. Thực tế cho thấy những cách bất lương đó đều tạo thêm bất công và gây ra bất ổn trong xã hội.

6. Tình huynh đệ. Khi đặt nền tảng trên niềm tin vào chân lý và lòng tôn trọng đối với đạo lý và lẽ phải, tình huynh đệ sẽ đưa đến những nỗ lực đáp ứng nhu cầu ngày nay là: (1) tôn trọng và bảo vệ sự sống, nhân phẩm, nhân quyền của mọi người anh em đồng bào và đồng loại, (2) vun tưới và chăm lo cho hạt giống tiềm năng của mọi người phát triển và sinh hoa kết trái thiện ích cho mọi gia đình, mọi dân tộc.

Tình huynh đệ đó còn được gọi là tình huynh đệ đại đồng. Trong thế giới toàn cầu hoá hôm nay, châm ngôn “Tứ hải giai huynh đệ” là ánh sáng soi đường cho loài người xây đắp tình liên đới và tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển và thăng tiến của mọi dân tộc. Khuynh hướng “Cá lớn nuốt cá bé”, phát sinh từ nền kinh tế thị trường, là động cơ thúc đẩy sản xuất, đồng thời nó cũng là một thứ lực phân rẽ và làm suy yếu sức sống của cộng đồng dân tộc.

7. Hòa bình. Hoà bình đích thực không có nghĩa là vắng bóng chiến tranh, mà là kết quả của công trình xây dựng, bảo vệ và phát triển. Ba viên đá nền xây dựng toà nhà Hoà Bình là Chân lý, Công lý và Tình Huynh đệ đại đồng. Gìn giữ và bảo vệ hoà bình lâu dài là nghĩa vụ của cả dân tộc và của mọi dân tộc. Đó cũng là chức năng của công quyền với trách nhiệm tổ chức cơ chế và luật lệ quản lý xã hội, bang giao quốc tế. Những khi quyền tự do của con người bị khống chế, những khi có hành động thiếu dân chủ, phân biệt đối xử, hoặc bạo lực áp bức, đó là những lúc biểu lộ sự thiếu ý thức tôn trọng đối với chân lý, công lý và tình huynh đệ. Đó cũng là những lúc làm suy yếu nền móng xây dựng hoà bình.

Công cuộc phát triển vững bền

8. Trong lãnh vực xã hội, niềm tin và lòng tôn trọng đối với những giá trị nền tảng trên là sức mạnh thúc đẩy mọi người chung sức đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của đất nước hôm nay: - hàn gắn những vết thương chiến tranh còn đang rỉ máu và tạo ra thế đối kháng cũng như chia rẽ trong lòng dân tộc; - khắc phục những tiêu cực và tệ nạn xã hội, nhằm lành mạnh hoá và thăng tiến đời sống gia đình và xã hội; - xây dựng đất nước vững bền và phát triển con người toàn diện.

9. Trong lãnh vực giáo dục, những giá trị nền tảng là ngọn đuốc soi sáng cho giới hữu trách là gia đình, nhà trường, xã hội, có cái nhìn chính xác về con người như là cùng đích của giáo dục và phát triển. Đồng thời cũng có cái nhìn về giáo dục và phát triển mang tính toàn diện.

Nền giáo dục toàn diện bao gồm mọi phương diện nhân bản và nền tảng của con người, như:

  1. trí dục, nhằm phát huy các tiềm năng trí thức là tiếp thu, ghi nhớ, phân tích, tổng hợp và sáng tạo,

  2. kỹ dục, nhằm phát huy khả năng ứng dụng và thực hành,

  3. thể dục, nhằm rèn luyện một thân thể cường tráng làm cho tâm thần lành mạnh,

  4. đức dục, nhằm phát huy khả năng đồng hoá với những giá trị tinh thần và đạo đức làm cho tâm hồn ngày càng trở nên cao thượng.

Khi dạy cho con người biết yêu chuộng chân lý và công lý, tình huynh đệ và hoà bình, nền giáo dục đó không những giúp thế hệ người trẻ tìm gặp lẽ sống và niềm hy vọng đối với tương lai của dân tộc, song còn: (1) tránh biến họ thành những con người hụt hẫng, què quặt, bệnh hoạn; (2) tránh tiếp tay biến họ thành công cụ phục vụ cho những tham vọng ích kỷ của những thành phần nắm giữ quyền lực, thế lực, tài lực trong xã hội; (3) tránh tạo thêm bất công và bất ổn trong xã hội.

10. Trong lãnh vực kinh tế, bốn giá trị nền tảng là bản chỉ đường cho mọi thành phần phát huy lòng yêu nước:

- Đối với thành phần sản xuất, yêu nước hôm nay là sống tự trọng và trung thực, không làm ra hàng dỏm, hàng giả, thuốc dỏm, thuốc giả, bằng giả, học giả, song làm ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao; yêu nước còn là quan tâm chăm lo cho đời sống công nhân và gia đình họ, chia sẻ và nâng đỡ lúc họ túng quẩn, tránh đối xử với họ như phương tiện sản xuất;

- Đối với các giới tiêu thụ, yêu nước hôm nay là”người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. Nếu lòng tôn trọng tha nhân đòi hỏi không bài ngoại, thì lòng tự trọng đòi hỏi không sính ngoại đến độ để mình bị đè bẹp và bị tha hoá.

- Đối với các thành phần nắm giữ quyền lực, thế lực, tài lực trong xã hội, địa vị càng cao càng có trách nhiệm đi đầu và dẫn đầu lòng tự trọng và lòng yêu nước hôm nay.

Đó cũng là bài học lịch sử từ những nước Á châu phát triển hoặc đang phát triển hôm nay.

+ HY Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Mục lục

 

 THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ : CUỘC ĐỜI VÀ TIẾNG GỌI

Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là : “Hãy theo Thầy”.

 

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.

“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu…Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).

Đọc Phúc Âm ta nghe âm vang lời mời gọi. “Hãy theo Thầy”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.

Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy”.

 

1.  Cuộc đời

Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi ngài đến Paris học (1525-1536).

Tại Paris ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.

Tháng 4.1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Indonésia. Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.

Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước  khi ra đi ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quãng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.

Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được ĐTC Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).

2 . Tiếng gọi.

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).

a.      Tiếng gọi từ Lời  Chúa.

Đức Giêsu hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.

Sinh ra trong gia đình quyền quý nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.

Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị; lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng không có gì thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen  với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.

Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.

b.      Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.

Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.

Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.

Ở Paris sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì qúa uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.

Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh có sức công phá không gì có thể cầm lại được. “ Chỉ có  vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó cùng với Ignaxiô thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “ cho vinh danh Chúa hơn”.

Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo. Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi (Bt 48,1);( bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1); Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ , Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)…Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10). Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1). Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt,16)…Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)…Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách đựoc (Bt 1,7).

c.       Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.

Ban đầu nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.

Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản. Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.

Tới Goa ngày 6.5.1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết. Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên khinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.

Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu, tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quãng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3.12.1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dỡ…Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.

Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.

Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân:Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người (Bt 78,2). Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẳn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.

Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.

3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban

Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.

Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.

Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi. Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên. Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.

Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “ Hãy theo Thầy” để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình (Bt 90,8.9).

Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm", là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

Con Sư Tử trong năm phụng vụ mới

Theo niên lịch năm, mới bắt đầu ngày 01.01., nhưng trong đời sống đức tin của Giáo Hội Công giáo năm phụng vụ mới bắt đầu không theo ngày tháng nhất định, mà theo chu kỳ lễ nghi phụng vụ, từ Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng - thường vào cuối tháng Mười Một hằng năm.

Năm nay, năm phụng vụ mới bắt đầu vào ngày Chúa nhật 30.11.2008. chu kỳ B. Theo chu kỳ phụng vụ B, năm nay Phúc âm theo Thánh Marco là trọng điểm bài đọc Phúc âm trong các ngày lễ Chúa nhật.

Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng nước Thiên Chúa, nhưng không có bài viết nào để lại. Sau khi Chúa về trời, Giáo Hội do các Thánh Tông đồ điều hành, vì nhu cầu giáo lý, những lời rao giảng của Chúa khi xưa được viết thu tập lại.

Có nhiều sách tập viết về đời sống cùng lời gỉang dạy của Chúa Giêsu, nhưng Giáo Hội Công giáo chỉ nhận bốn sách Phúc âm: Theo Thánh Mathêo, theo Thánh Marcô, theo Thánh Luca và theo Thánh Gioan. Bốn Thánh viết Phúc âm Chúa Giêsu vào những thời điểm khác nhau :

Thánh Mathêo viết vào khoảng năm 70 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh. Thánh Mácô viết vào khoảng năm 65/66 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng Sinh. Thánh Lu-ca viết vào khoảng năm 80 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh. Và Thánh Gioan viết vào khoảng cuối năm 100 thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh.

Họ trình thuật lại việc làm cùng Lời giảng dậy của Chúa theo như họ nghe biết hoặc trực tiếp như Thánh Mathêo, Thánh Gioan là tông đồ của Chúa Giêsu ; hoặc gián tiếp như Thánh Marcô và Thánh Luca là học trò của Thánh Phêrô và Thánh Phailô, cùng hiểu ý nghĩa trong ánh sáng được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Vì thế họ viết lại, trình bày Lời Chúa với những trọng điểm khác nhau và theo khung cảnh nền văn hóa thời họ sinh sống

Và cũng do những trọng điểm khác nhau đó, bốn Thánh Sử viết Phúc âm có bốn biểu tượng khác nhau. Những biểu tượng này không phải do họ tự đặt ra cho mình. Nhưng sau này do những nhà nghiên cứu học hỏi về Kinh Thánh,những nhà phân tích, những nhà nghệ thuật về hội họa điêu khắc đặt cho họ.

Biểu tượng cho Phúc âm Thánh Mácô là hình con Sư tử.

Lý do chọn biểu tượng này cho Thánh nhân, vì Ông thuật lại trong sách Tin Mừng ngay phần đầu Sứ vụ cùng bài giảng, Phép Rửa của Ong Thánh Giaon Tẩy Giả trong hoang địa sa mạc như tiếng sư tử gầm : ăn năn sám hối trở về cùng đường ngay nẻo chính thiện, để dọn đường, dọn tâm hồn con người cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế đến (Mc 1, 1-8).

Những ai đã sang du lịch tham quan thắng cảnh thành phố Venezia bên Ý, thấy ngay ở trung tâm thành phố ngôi Thánh đường chính tòa cổ kính mang danh hiệu Thánh Marcô thánh sử phúc âm, trong ngoài Thánh đường đều có khắc chạm hình Sư Tử, ngoài sân công trường trên trụ tháp cao có tượng Sư Tử chạm khác sơn mầu vàng chói có hai cánh. Theo tương truyền, xác của Thánh sử Marco được đưa về đây chôn táng.

Hình con Sư Tử biểu hiệu của Thánh Marco là huy hiệu của nhà thờ chính tòa và của thành phố du lịch nổi trên mặt nước Venezia.

Tính theo thời gian, Phúc âm theo Thánh Marcô là Phúc âm được viết sớm trước nhất vào năm 65/66 thế kỷ thứ nhất sau Chúa gíang sinh. Thánh Marcô viết phúc âm bằng chữ Hylạp. Ông muốn trình bày giáo lý cuộc đời Chúa Giêsu trứơc hết cho độc gỉa người ngoại giáo và những người sau trở lại theo đức tin Kitô giáo.

Qua phúc âm giáo lý, Thánh Marcô muốn khuyến khích họ trong mọi hoàn cảnh, dù có khó khăn đau khổ, luôn vững tâm trung thành với đức tin vào Chúa Giêsu. Trong phần tường thuật cuộc khổ nạn những biến cố sau cùng cuộc đời Chúa Giêsu, Ông thuật lại chi tiết thời gian ngày giờ sự việc xảy ra, và những chi tiết tỉ mỉ như một nhà sử học ăn khớp với nhau.

Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng 2008-2009

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Mục lục

FATIMA VÀ NHỮNG LỜI CẢNH BÁO RÙNG RỢN.

Những ngày vừa qua, hẳn nhiều người đã nhận được một file powerpoint bằng tiếng Pháp cùng với bản dịch tiếng Việt, dưới tựa đề là “Lời Tiên Báo thứ ba - Bí mật Fatima”.  Những lời trong văn bản gợi lên hình ảnh rất rùng rợn của một đại họa sắp xảy ra, tương tự như một ngày tận thế.

Ngay sau đó, nhiều người báo cho biết rằng đấy là một ‘lời tiên báo giả mạo’.  Cũng lưu ý rằng bản tiếng Pháp được thực hiện cách đây ba năm và bản dịch thì mới xuất hiện năm nay (từ 1917 đến nay là 88 năm trong bản tiếng Pháp so với 91 năm trong bản dịch tiếng Việt). 

Trước hết, không hề có ‘Lời tiên báo thứ ba’, mà chỉ có phần thứ ba của ‘bí mật’ Fatima mà thôi. Kế đến, phần thứ 3 này đã được Đức Gioan Phaolô II cho phép công bố. Ngày 26-06-2000, Thánh  Bộ Giáo Lý Đức Tin đã phổ biến văn kiện “Message of Fatima” (1), ghi lại toàn bộ ‘phần 3’ của bí mật Fatima, cùng với những bình luận thần học của bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, mà hiện nay là Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI.

 

I - Bí Mật Fatima: Phần 3. 

Sau đây là bản dịch nguyên văn phần thứ 3 của sứ điệp Fatima, do chính tay chị Lucia viết vào ngày 3-1-1944.  

“J.M.J. (Giêsu Maria Giuse)

Phần thứ ba của bí mật được mặc khải vào ngày 13-07-1917, tại Cova de Iria - Fatima. 

Con viết lại vì đức vâng phục đối với Chúa, lạy Chúa, là Đấng truyền lệnh cho con qua Đức Cha giáo phận Leira và qua Mẹ thánh của Chúa, cũng là Mẹ của con. 

Sau hai phần con đã trình bày, thì ở bên trái của Đức Mẹ và cao hơn một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thần cầm một lưỡi gươm lửa nơi tay trái; gươm lấp lánh và toát ra những ngọn lửa như muốn đốt cháy thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đã tắt đi khi chạm đến hào quang quanh bàn tay phải của Đức Mẹ hướng xuống thế gian. Vị thiên thần, tay phải chỉ xuống trái đất, kêu lớn tiếng rằng: “Ăn năn! Ăn năn! Ăn năn!”. Rồi chúng con thấy trong một ánh sáng mênh mông là Thiên Chúa  (giống như người ta nhìn thấy khi đi ngang qua một tấm gương) một vị giám mục mặc Áo Trắng (mà chúng con có linh cảm đó là Đức Thánh Cha). Nhiều Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi cheo leo, mà trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn làm bằng những thân cây thô,  giống như cây điên điển với lớp vỏ bọc ngoài; trước khi đến đấy, Đức Thánh Cha đã băng qua một thành phố lớn, mà một nửa điêu tàn và một nửa đang sụp đổ; bước chân ngài xiêu vẹo, vì đau đớn và u sầu, Ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thi hài Ngài gặp thấy trên đường đi; khi lên đến đỉnh núi, ngài quì dưới chân cây Thập Giá lớn, bấy giờ Ngài đã bị giết, do một nhóm lính bắn nhiều phát bằng một vũ khi nả đạn và tên; rồi lần lượt các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với giáo dân thuộc nhiều giai cấp và thành phần xã hội khác nhau cũng chết. Dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay mình một bình tưới bằng pha lê để hứng lấy máu của các vị Tử Đạo và hai vị dùng máu ấy tưới lên những linh hồn tiến gần đến Thiên Chúa.

Tuy - 3 - 1 - 1944” 

Tiếp theo đây là một đoạn trích dẫn bài bình luận của Đức Hồng Y Ratzinger: 

“Vậy thì một câu hỏi được đặt ra: Ý nghĩa của ‘Bí mật Fatima’ trong toàn bộ (cả 3 phần) là gì? Bí mật ấy nói gì với chúng ta? Trước tiên, tất cả chúng ta phải khẳng định như đức Hồng Y Sodano: “… những sự kiện  mà ‘bí mật’ Fatima nhắc đến dường như đã thuộc về quá khứ”. Như thế, nếu xét theo các biến cố được mô tả, thì chúng đã thuộc về quá khứ rồi. Những ai chờ đợi các mặc khải cánh chung về ngày tận thế hoặc tiến trình tương lai của lịch sử buộc phải thất vọng thôi. Fatima không thoả mãn tính hiếu kỳ của chúng ta theo cách đó; cũng như đức tin Kitô giáo nói chung không thể giản lược thành một đối tượng của lòng tò mò mà thôi. Điều còn lại thì đã rõ ràng, khi ta bắt đầu suy tư về bản văn của ‘bí mật’ ấy: đó là lời kêu gọi cầu nguyện như một con đường ‘cứu rỗi các linh hồn’, và lời kêu gọi ăn năn hoán cải cũng nhằm mục đích đó. 

Cuối cùng, tôi muốn nói đến một câu trong ‘bí mật’ đã trở thành nổi tiếng một cách chính đáng: “Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ thắng”. Câu này có nghĩa là gì? Một trái tim mở ra đối với Thiên Chúa, được tinh luyện nhờ chiêm ngắm Chúa, trái tim ấy thì mạnh hơn bất cứ loại súng đạn và vũ khí nào. Tiếng Fiat của Đức Mẹ, tiếng nói xuất phát từ trái tim Mẹ, đã thay đổi dòng lịch sử nhân loại, vì tiếng ấy đã đem Đấng Cứu Độ đến cho nhân loại - bởi vì, nhờ tiếng ‘Xin Vâng’ ấy, Thiên Chúa trở nên người phàm trong thế giới này và ở lại với chúng ta cho đến mãi mãi.”

 

II. Tận thế vào năm 2012 

Tài liệu ‘bí mật thứ ba’ kêu gọi chuẩn bị cho ngày ‘tận thế’ đó, và vì đấy là một lời phán của Đức Mẹ, nên không cần một lý chứng ‘khoa học’ nào. Cho đến nay, chưa thấy ai đưa ra luận cứ nào để biện minh cho những lời trên; tuy nhiên, ngay từ bây giờ tôi cũng muốn nêu trước những cái gọi là ‘bằng chứng khoa học’ mà mai này có người sẽ dựa vào mà bảo vệ cho cái ‘bí mật Fatima’ giả tạo đó, và làm cho tín hữu hoang mang. 

Cách đây vài năm xuất hiện một nguồn tin ở phương tây - và một ngày gần đây hẳn sẽ rộ lên ở Việt Nam - cho rằng tận thế sẽ rơi đúng vào ngày 21-12-2012, lúc 11g11. Nếu vào google mà đánh “Apocalypse 2012” thì sẽ tìm thấy 67.100 bài, còn “fin du monde 2012” thì có 11.300 bài nói về đề tài này.  

Chỉ cần click vào địa chỉ  http://www.2012fin.com  bạn sẽ thấy hiện lên chính xác số ngày, giờ, phút, giây còn lại cho đến ngày tận thế! Khi tôi viết bài này thì thời gian còn lại là 1486 ngày, 21 giờ, 08 phút, 31 giây; và khi bạn đọc bài này thì thời gian còn ít hơn nữa! 

Trong các tài liệu trên, nhiều ‘nhà khoa học’ đã dựa vào các nguồn khác nhau để biện minh cho biến cố ‘tận thế’ hoặc một biến cố rùng rợn tương tự như thế. 

1. Lịch Maya: Dân Maya - Trung Mỹ - có một bộ lịch được thực hiện cách đây gần 5000 năm. Lịch này tiên báo chính xác các nhật thực và nguyệt thực từ trước đến nay, đồng thời mô tả các chu kỳ vận chuyển của các hành tinh. Một trong các chu kỳ có thời gian là 5125 năm sẽ kết thúc vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. 

Các nhà thiên văn cũng xác nhận rằng ngày ấy là một ngày hí hữu - chỉ xảy ra một lần trong vòng 52.000 năm - mà các hành tinh đều thẳng hàng và có thế gây những tác động rất lớn trên địa cầu, thậm chí nam cực và bắc cực có thể di dời, tạo ra những hiện tượng thiên nhiên khả dĩ phá hủy toàn bộ sự sống hiện nay trên địa cầu. 

2. Kinh Dịch: Từ 5000 năm qua, Kinh Dịch khởi sự để bói toán, dần dần trở thành một triết lý, rồi đến một khoa học có thể dự kiến những biến cố trên nhiều lãnh vực. Năm 1999, anh em Terrence and Dennis McKenna đã đưa các qui luật của Kinh Dịch vào vi tính và vẽ ra một biểu đồ về tiến trình lịch sử. Biểu đồ này xác định khá chính xác các biến cố lớn trong lịch sử quá khứ của nhân loại. Biểu đồ này cũng cho thấy rằng vào năm 2012 sẽ có một biến cố tồi tệ nhất chưa bao giờ xảy ra từ trước đến nay. 

3. Web-bot: Web-bot (viết tắt của Web Robot) thoạt đầu là một chương trình dùng Robot để tính toán về chứng khoán. Các Robot thu thập hàng trăm ngàn số liệu và dữ kiện thuộc nhiều lãnh vực khác nhau, rồi tính toán và đưa ra những dự kiến về thị trường chứng khoán. Web-bot đã tỏ ra rất chính xác trong lãnh vực này. Từ đó, Web-bot mở rộng phạm vi dự đoán của mình bằng cách thu thập hằng tỉ thông tin khắp nơi và đề ra những dự kiến tương lai cho nhân loại. Các tính toán của Web-bot cũng cho thấy một tai họa khủng khiếp sẽ đến với nhân loại vào năm 1012. 

Ngoài ra, người ta còn nói đến các lời tiên tri khác: của trinh nữ Sybille, ở Hy Lạp, cách đây hơn 4000 năm với sách Sybilian Oracles; của thánh Gioan, ở Palestine, vào thế kỷ thứ 1 với sách Khải Huyền; của thánh Malachy, ở Ireland, vào thế kỷ thứ 11 với những lời tiên báo về 112 vị giáo hoàng (mà vị cuối cùng là Đức Bênêđitô XVI); của Nostradamus, ở Pháp, vào thế kỷ 16 với nhiều lời đã được lịch sử kiểm chứng, vv… 

Tất cả những thông tin mơ hồ ấy, với cách trình bày khéo léo, sẽ trở thành luận cứ để nhiều người dùng mà chứng minh ‘một cách khoa học’ cho lời ‘bí mật thứ ba’ giả mạo kia.

 

III. Tận thế đối với mỗi người. 

Những dữ kiện trên đây nhằm cho thấy rằng ‘bí mật Fatima thứ ba’ chỉ là một thư spam nếu không phải là tài liệu tào lao. Thế nhưng rồi đây cũng có nhiều người tin tưởng. Không ít người bàn ra tán vào: ‘Ờ biết vậy, nhưng rủi tận thế thật thì sao?’. Tin thì không tin, mà sợ thì vẫn sợ. Vậy thì chúng ta hãy xác định với nhau một điều: Tận Thế sẽ xảy ra. Bất cứ điều gì có một khởi đầu thì sẽ có một chấm dứt. Và thế giới vật chất này không phải là một ngoại lệ. Hẳn là tận thế không xảy ra như lời tiên báo trên slide show ‘Bí mật thứ ba’, hoặc vào ngày 21-12-2012 như lịch Maya xác định, nhưng tận thế chắc chắn sẽ xảy ra. Nó có thể xảy ra một triệu năm nữa nhưng cũng có thể xảy ra ngày mai; vì Chúa phán: “Trời đất sẽ qua đi... về giờ và ngày đó thì không ai biết được, ngay cả các thần sứ trên trời hay cả Người Con (nghĩa là chính Ngôi Hai) cũng không biết; chỉ một mình Đức Chúa Cha biết thôi. (Mt 24, 35-36). Vậy thì không cần phải đoán mò. Điều chắc chắn là tận thế đối với mỗi người đã bắt đầu. Đến năm 2110, thì không một người nào hiện đang sống sẽ còn có mặt trong vũ trụ này: mọi người sẽ lần lượt ra đi, chỉ trước hay sau mà thôi. Đó là điều ta cần suy nghĩ. Khi một người đã bị kết án tử hình thì giờ hành quyết có xảy ra ngay hôm đó hay sau vài tháng, đối với người ấy, cũng thế thôi. Khi con người thực sự hiểu rằng mình không bất tử thì phải suy nghĩ  để sống thế nào hầu đối diện với ngày tận cùng của cuộc đời mình. Và đó là lý do vì sao người Công Giáo sống Đức Tin. Nhưng Đức Tin Công Giáo không đặt nền tảng trên sự sợ hãi. Mọi sự đe dọa dưới bất cứ hình thức nào đều đi ngược với Đạo Tình Yêu. Phải mất 3.000 năm để cho Dân Chúa đi từ việc tôn thờ một Yavê thịnh nộ và thẳng tay trừng phạt đến một Thiên Chúa của Đức Kitô, Người Cha nhân từ và sẵn sàng tha thứ. Vậy thì những lời kêu gọi được gán cho Đức Mẹ trên kia đã vẽ lên một bức hí họa về Kitô giáo. Đã có quá nhiều người trên thế gian bôi nhọ Giáo Hội và Thiên Chúa rồi, không cần những người tự xem mình ‘sứ giả của Đức Mẹ’ góp phần nữa, để biến một Tôn Giáo của Yêu Thương, của xả kỷ, của hy sinh, của quên mình, thành một Tôn Giáo của mê tín, của ích kỷ, của sợ hãi, của ngây ngô. Phúc âm từng nhắc đến tận thế, và trước mắt ta nên hiểu đấy là tận thế của từng người. Vì vậy Giáo hội không ngừng kêu gọi ăn năn sám hối; nhưng sám hối để sống mầu nhiệm Tình Yêu, để biến cái thế giới còn bất công này thành một ngôi nhà của những người con cùng một Cha chung và biết đối xử với nhau trong tình huynh đệ, chứ không phải sám hối bằng cách bỏ tiền đi xin lễ, mua nến, mua bình đựng nước thánh với mục đích cho mình sống sót, hoặc ít ra là chuẩn bị một cái ghế hầu an vị ở thế giới bên kia, nếu ‘trời sập’ vào một ngày gần đây. 

Xin đừng nhân danh lòng tôn sùng Đức Mẹ mà biến Mẹ thành một ngẫu tượng, biến Đạo Công Giáo thành một tập tục nhảm nhí, biến sứ điệp Tin Mừng thành một thông báo Tin Lo. 

Chú thích:

(1) Tài liệu liên quan đến Sứ điệp Fatima của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin:

Tiếng Anh:

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html

Tiếng Pháp:

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_fr.html

 Gs. Trần Duy Nhiên

Mục lục

 

Nước mắt chảy xuôi.

               Dư luận trong những ngày gần đây đã thật sự nóng lên, khi trên báo chí loan tin, một người đàn ông đã đánh đập hành hạ mẹ ruột mình một cách tàn nhẫn. Người mẹ già ấy đã 85 tuổi. Chuyện xảy ra tại quận Gò Vấp. Sự việc đã được nhiều bà con lối xóm tố cáo đến chính quyền, nhưng chính quyền không thể làm việc, vì cho là thiếu chứng cứ. Song, chỉ một ngày sau đó, một người dấu tên, đã bảo đảm chuyện ấy là sự thật và nêu chứng cứ là một đoạn Video được quay bằng ĐT di động. Lập tức, đoạn Video ấy đã được bung lên mạng.

         Chuyện con cái ngược đãi cha hoặc mẹ không phải là chuyện gì mới lạ  và hiếm có trong thời buổi hiện nay, nhưng dư luận vẫn thật sự bức xúc.

       Rồi đây, các nhà xã hội học, các nhà luân lý và các vị tu đức lại có dịp lên tiếng. Kết án hoặc giải thích và chỉ ra các nguyên nhân tùy theo quan điểm mỗi giới. Đó là những việc làm chính đáng và rất cần thiết.

          Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược.  Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột …..Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi. Cái TÔI lên ngôi Thượng  Đế.

         Vì như thế, ở đây, xin đứng trong một góc độ hơi khác, cùng với những ai luôn xác tín rằng, dù cuộc sống có thế nào và hoàn cảnh có nghiệt ngã khốn nạn ra sao đi nữa, thì Tình thương vẫn luôn hiện diện, Tình thương ấy luôn cụ thể và tràn đầy trong trái tim người Mẹ. Ngàn xưa đã vậy, và ngày nay cũng vẫn không khác, đến nỗi rằng, một hiền giả đã phải cực tả điều ấy trong một câu nói nổi tiếng rằng :

            “Thượng đế không thể hiện diện ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo ra những người Mẹ”.

         Ai cũng có Mẹ, nhưng do mỗi hoàn cảnh không giống nhau nên có người đã không thể sống cùng, hoặc vì người Mẹ đã mất. Đó đây, cũng có người Mẹ đem bán con mình, hoặc cư xử tàn tệ với con cách này cách khác. Nhưng thật may mắn và phúc lộc biết bao, những bà mẹ như thế chỉ là rất nhỏ, chỉ rất cá biệt, một tỷ lệ  không đáng kể trong muôn vàn những Bà Mẹ đúng nghĩa, luôn đầy rãy và mãi mãi có mặt xung quanh chúng ta trên cuộc đời này. 

          Tuy nhiên, phần lớn những người con chỉ nhìn ra tình thương của Mẹ khi thật muộn màng, lúc Mẹ đã đi xa hoặc Mẹ không còn nữa. Nhiều người con ấy đã trở thành những ông nọ bà kia, được xã hội trọng vọng kính nể tôn vinh, nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, họ vẫn không nguôi những bứt rứt ăn năn, khi nghĩ về người Mẹ.

          Mọi ân hận, mọi hối lỗi đều chẳng còn cơ hội để làm lại và sửa chữa nữa rồi. Nhiều, nhiều lắm những giọt nước mắt muộn màng ấy. Và cũng không thiếu cả những dằn vặt, đớn đau khi nhớ lại cái cảnh :

            Lúc sống thì chẳng cho ăn. Lúc chết chỉ để làm văn tế ruồi.

        Sau khi đọc bài viết, đã có người hỏi đây là chuyện thật hay là hư cấu, xin trả lời ngay rằng, về Tình Mẹ, dù có là bao nhiêu hư cấu đi nữa, cũng chẳng bao giờ hiểu cho đúng, nói cho hết và viết cho đủ, so với những thực tế về Tình Thương  giữa Mẹ và Con, vì thế câu hỏi trên, tuy có vẻ là cần, nhưng đã trở nên thừa  thãi .

             Bài thơ, bản nhạc nào khi viết về người Mẹ cũng đều gây xúc động, xin giới thiệu dưới đây, một bài văn như thế, của một tác giả vô danh mà chúng tôi vừa nhận được : .

                    Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.

                   Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi ? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên: "Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt!".

                     Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về tôi nói thẳng với bà: "Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!".

                    Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore.

                      Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.

 Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ.

               Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyên, và hét lên: "Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!". Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời "Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!" và lặng lẽ quay đi. Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con hay sao?

Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an sinh xã hội đã lo mai táng chu đáo.
                  Tôi không nhỏ được lấy một giọt nước mắt. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi, lá thư ấy như sau :


            "Con yêu quý,


          Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra khỏi giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.


          Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn và hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi yên nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó.

           Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả một thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ..

           Mẹ yêu con lắm,

           Mẹ...".

Xuân Thái

Mục lục

 

HÃY TỈNH THỨC

 (Mc 13, 33-37)

Chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Ðầu mỗi năm mới, khi chúng ta mừng Tết Nguyên Ðán, chúng ta lại hướng nhìn về phía trước, nhìn về tường lai với niềm hy vọng là năm mới sẽ đem lại cho chúng ta những điều tốt lành hơn. Thì đầu năm Phụng vụ mới cũng vậy, Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Ðất Mới cho loài người chúng ta.

 

Có điều đặc biệt là: thường thường trong những ngày đầu năm, chúng ta cố gắng quên đi cuộc sống hiện tại với bao nhiêu khó khăn thử thách và trách nhiêm nặng nề, thì hôm nay trong ngày đầu năm Phụng vụ, trong lúc gợi lại trước mắt chúng ta quang cảnh tươi sáng về ngày Chúa quang lâm, Giáo Hội lại không muốn để cho chúng ta cứ tha hồ mà sống trong mơ ước xa xôi, nhưng trái lại Giáo Hội đưa chúng ta về với cuộc sống và trách nhiệm hiện tại của mình và nhắc lại lời căn dặên của Chúa Giêsu: Hãy Tỉnh Thức!

 

Bài Phúc Âm khai mạc năm Phụng vụ mới này (Mc13, 33-37) chỉ vỏn vẹn có 5 câu mà đã có tới 4 lần dùng mấy tiếng "phải tỉnh thức". Mở đầu là lời kêu gọi "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức!" Kết thúc cũng là lời kêu gọi tương tự: "Thầy nói với anh em đây và với mọi người là phải tỉnh thức!" Giữa hai lời kêu gọi đó, là một dụ ngôn ngắn kể rằng: Người kia sắp đi xa, ông để nhà lại cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức, vì không biết chủ về lúc nào. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào, khi chủ bất thần trở về, bắt gặp còn đang ngủ mê.

 

Ngôi nhà mà ông chủ giao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Ðức Kitô giao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó, cũng như chúng ta chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình và phải quản lý nó hợp với ý muốn của Thiên Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương. Rồi ngày kia Chúa sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Người sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành trách nhiệm của mình như thế nào?

 

Chúng ta phải sống cuộc sống hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến (đến trong ngày tận cùng của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta), vàø vì hướng về Ðức Kitô như thế mà tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Trong bài dụ ngôn này--cũng như trong dụ ngôn những nén bạc mà ông chủ giao cho các tôi tớ trước khi đi xa--chúng ta đều thấy nhấn mạnh tới trách nhiệm và tính chủ động của con người trong việc xây dựng Nước Trời và xây dựng hạnh phúc của mình.

 

Chúa Giêsu đã đến. Rồi Người đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Ðến ngày Quang Lâm, Người sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mặt muôn dân. Trong thời gian Người giấu mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Người sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng sở dĩ Chúa ẩn mình đi như thế là Người tôn trọng chúng ta, vì muốn cho chúng ta nên người trưởng thành, biết sử dụng tự do, tính sáng tạo và thi thố tinh thần trách nhiệm. Làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát vào nó, lo lắng cho nó từng ly, từng tí? Dĩ nhiên là Chúa vẫn hiện diện và lo lắng cho chúng ta, nhưng có thể nói cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của ta.

 

Nếu chúng ta theo Chúa chỉ cốt để tìm an ủi hoặc tìm sự an toàn trước cuộc đời đầy đau khổ, thì chúng ta không làm đẹp lòng Chúa và làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo là ru ngủ. Cũng vậy, nếu chúng ta theo Chúa, để rồi lẫn trốn các trách nhiệm đối với xã hội, đối với anh chị em đồng loại, tức là chúng ta làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo kìm hãm con người trong vòng ấu trĩ.

 

Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời. Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại: nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết nếu số phận người tốt, người xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!

 

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích. Ba là tin vào thuyết luân hồi (cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác), nếu kiếp này ta chưa đạt tới hạnh phúc thì ta sẽ chờ kiếp sau, khi ta được đầu thai lại. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.

 

Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của chúng ta. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc chúng ta gieo mầm mống cho đời sống vĩnh cữu. Mỗi người thỉnh thoảng nên tự hỏi mình sử dụng thời giờ như thế nào?

Người kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Ðồng thời người kitô hữu luôn luôn hướng về Ðức Kitô sẽ đến kiện toàn công cuộc cứu độ, họ biết rằng thế gian này, tuy là rất tốt đẹp, nhưng không phải là quê hương vĩnh cữu của mình. Họ sống cuộc đời trần gian cách hết sức nghiêm chỉnh như thể là sẽ mãi mãi ở đây (vì đó là Thánh ý của Chúa); đồng thời họ sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa đến gọi họ ra đi.

 

Người kitô hữu giống như người học trò tốt ở trong ký túc xá. Suốt tuần anh ta học hành rất chăm chỉ, anh ta không làm biếng, không ngồi đó mà mơ mộng viễn vông, nhưng cuối tuần khi cha mẹ đến đón về nhà, thì anh ta càng vui sướng? Việc trông chờ ngày nghỉ cuối tuần trong gia đình không làm cho anh ta sao nhãng việc học hành, trái lại tăng thêm nghị lực cho anh ta.

 

Thời gian Mùa Vọng là thời gian Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ hy vọng, mong chờ và tỉnh thức. Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và hăng say, họ thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng, với tất cả nhiệt huyết, nổ lực cần cù và không trì hoãn. Ðây là thời gian Giáo Hội muốn chúng ta sống hướng về ngày giờ Ðức Kitô đến một cách ý thức hơn.

 

Khi chúng ta làm việc mà biết hướng về Ðức Kitô thì chắc chắn có một cái gì đó thay đổi trong thái độ và cách thức làm việc của ta. Khi chúng ta đau khổ màbiết hướng về Ðức Kitô thì sẽ có cái gì đó thay đổi. Khi chúng ta chiến đấu mà biết hướng về Ðức Kitô thì cũng sẽ có cái gì đó thay đổi . Ngay cả khi ta vui chơi, giải trí cũng thế. Và trong mọi sự, mọi hoàn cảnh chúng ta đều có sự bình an.

 

Người ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?". Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: " Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai nói:"Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm". Riêng Lu-y vẫn bình thản trả lời:" Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi".

 

Ðó là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta./.

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

TÌNH YÊU -HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH

 

CON CÁI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

Có lẽ anh chị đã không vô tình khi chọn bài đọc một trong thánh lễ hôm nay để ca mừng tình yêu của chính mình. Khi chọn bài nhã ca này, hẳn anh chị đã hiểu được ý nghĩa của tình yêu Thiên Chúa yêu loài người và tình yêu Đức Kitô yêu Hội Thánh. Vâng vì bài nhã ca này diễn tả lời Thiên Chúa âu yếm hẹn hò loài người như người yêu hẹn hò người yêu, và Thiên Chúa ca ngợi tình yêu của Nài như người yêu ca ngợi tình yêu. Và tình yêu của các vợ chồng Kitô hữu diễn tả điều đó.

 

Anh chị đã nhận ra được ý nghĩa ấy, thì trong đời sống hôn nhân của anh chị, đừng cho ý nghĩa ấy lu mờ, nhưng hãy sống thế nào để mọi người nhìn vào tình yêu của anh chị mà nhận ra được hình ảnh của Thiên Chúa.

 

Cách riêng, tôi muốn mời gọi thế nào để tình yêu anh chị diễn tả cho các con của anh chị một hình ảnh thật đúng về tình yêu Thiên Chúa. Theo tâm lý học, con người của cha mẹ chúng ta ảnh hưởng rất nhiều đến cách chúng ta suy nghĩ về Thiên Chúa. Cha mẹ âu yếm vỗ về, con cái sẽ nhận ra Thiên Chúa hay yêu thương săn sóc, cha mẹ nghiêm khắc thì con cái dễ sợ hãi khi nghĩ đến Thiên Chúa.

 

Thế nên làm cha, làm mẹ anh chị có trách nhiệm phải vẽ đúng hình ảnh của Thiên Chúa vào tâm hồn con cái. Đừng để vì lối sống của anh chị hay vì sự thiếu sót của anh chị trong tình yêu mà con cái hiểu sai Thiên Chúa.

 

Vì thế, điều cộng đoàn dân Chúa cầu chúc cho anh chị hôm nay là chúc anh chị luôn nhìn vào Thiên Chúa để bắt chước Ngài trong yêu thương.

 

Trước hết, xin chúc anh chị yêu thương nhau tha thiết để con cái anh chị có thể nhận ra được Thiên Chúa yêu thương ta đến nỗi ban Con Một Ngài, và Chúa Giêsu đã yêu thương ta đến nỗi đã chết vì chúng ta. Chính Ngài đã nói : không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống cho người mình yêu.

 

Một ngày kia nếu anh phải chết cho chị hay chị phải thí mạng sống vì anh để chứng tỏ tình yêu vợ chồng, tôi tin là anh chị sẽ không ngần ngại, vì anh chị muốn cho các con hiểu được tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa.

 

Nếu một ngày kia anh và chị phải hy sinh chính mình vì các con, xin cũng dừng ngần ngại. Tôi muốn nói rõ hơn: Nếu rồi đến lúc kinh tế eo hẹp, phải tiết chế hành vi vợ chồng hay là sẽ quả cảm nước mắt nhìn lên trời đón nhận một đứa con mới, xin anh chị đừng sờn lòng. Sự hy sinh lớn lao của anh chị sẽ cho các con hiểu rằng chúng nó được tôn trọng đến mức nào.

 

Anh chị đã yêu thương con cái đến độ đã hy sinh bản thân mình, sự hy sinh đó sẽ cho các con của anh chị hiểu rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngần nào khi Ngài chấp nhận xoá mình vì ta.

 

Rồi thứ hai xin cầu chúc cho anh chị biết noi gương Thiên Chúa để khoan dung, nhẫn nại trong tình yêu, để con cái biết được Thiên Chúa là cha giàu lòng nhân từ và hay tha thứ.

 

Lúc ban đầu, mọi sự đều thơ mộng, kể cả những khuyết điểm cũng đựoc coi là chuyện dễ thương, yêu nhau yêu cả đường đi; nhưng dần dần sự thật sẽ hơi phũ phàng một tý cũng đủ làm cho chết người rồi. Lúc đó hãy nhớ rằng chính Thiên Chúa đã khoan dung độ lượng với chúng ta.

 

Nếu anh chị đã khám phá thấy hai người có những qua điểm khác nhau, hoặc nếu con cái không theo ý muốn của anh chị, xin đừng coi là quá quan trọng, để con cái có thể hiểu được rằng Thiên Chúa đã tôn trọng tự do của chúng ta.

 

Nếu một trong hai người hay con cái có gì lầm lỡ, xin hãy khoan dung để con cái thấy rằng chính Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót và tha thứ.

 

Thiên Chúa biết rõ tất cả những lần ta vấp phạm, nhưng không phải mỗi lần như thế Thiên Chúa đều tát tai, rầy la, cằn nhằn, nhưng Ngài nhẫn nại và gợi ý, tạo cơ hội cho ta trở lại với Ngài. Đánh phạt con cái khi chúng có lỗi là điều cần thiết để cho chúng nhớ đến sự công chính của Thiên Chúa nhưng rầy la hăm doạ thường xuyên kẻo con cái quên mất rằng Thiên Chúa là Đấng nhẫn nại và hay tha thứ.

 

Rồi thứ ba, xin cầu chúc anh chị sống mãi trong tình yêu chân thật và trung thành để con cái hiểu được Cha trên trời là Thiên Chúa chân thật và trung tín.

 

Đã yêu nên thiên Chúa tỏ cho ta sự thật của Ngài.

Trong tình yêu không còn giả dối và dấu diếm.

Tình yêu nói thật với nhau.

 

Anh chị hãy thành thật với con cái và giữ lời hứa với chúng để chúng vững tin vào Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn luôn giữ lời đã hứa.

 

Thưa anh chị.

 

Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thư chân thật và trung tín.

 

Anh chị có trách nhiệm vẽ vào tâm hồn các con hình ảnh thật đúng ấy về Thiên Chúa. Nếu quên bài giảng xin hãy nhớ một điều.

 

Cha mẹ chịu trách nhiệm về hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn con cái.

 

Bước vào đời sống hôn nhân, anh chị hãy hăm hỡ noi gương Thiên Chúa, nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời, để có thể thực hiện được sứ mạng Ngài giao phó.

Theo tập sách "Tin mừng cho đôi tân hôn" không rõ tác giả

Mục lục

Bệnh ở mũi và cách xử trí

Mũi được hình thành từ tuần thứ tư của bào thai, xuất phát từ lớp nội mô của đầu cùng với xoang sàng. Trong quá trình phát triển đó, vì một nguyên nhân bất thường như nhiễm virut cúm, Rubella..., một số độc tố của thuốc người mẹ sử dụng trong thời kỳ mang thai có thể dẫn đến những thay đổi bất thường của trẻ trong đó có những dị dạng của mũi.


Hẹp cửa mũi sau bẩm sinh là một loại dị hình bẩm sinh thường gặp ở trẻ sơ sinh. Trẻ bị tắc một hoặc cả hai bên mũi. Nguyên nhân của bệnh là một tấm màng mỏng hoặc một khối xương bít lấp cửa mũi sau một phần hay toàn bộ. Bệnh nhi xuất hiện triệu chứng tắc mũi, trẻ không thở được bằng mũi: để gương phía trước mũi sẽ không thấy vết mờ. Mỗi lần bú trẻ ngạt thở và ho sặc sụa. Nhỏ thuốc màu thấy thuốc không xuống được họng mà trào ra ngoài. Dùng que thông mũi thăm dò không thấy xuống họng miệng. Nếu bít lấp hoàn toàn cửa mũi sau ở trẻ sơ sinh làm bệnh nhi không thở được thì phải giải quyết sớm. Nếu là lớp màng mỏng thì chọc thủng bằng một que thông. Nếu là khối xương thì cân nhắc đến tình trạng chung của trẻ và thường phẫu thuật khi trẻ ngoài 12 tuổi vì nếu mổ sớm quá trẻ không đủ sức chịu đựng sẽ ảnh hưởng tới tính mạng.


Hẹp cửa mũi trước bẩm sinh rất hiếm và thường chỉ là một màng mỏng che cửa mũi trước. Việc xử trí rất đơn giản bằng cách phẫu thuật khoét mảnh da ở cửa mũi là khỏi.


Hẹp cửa mũi do mềm sụn cánh mũi rất hiếm gặp ở người Á đông mà chủ yếu ở chủng người da trắng. Mỗi khi bệnh nhân hít mạnh thì hai cánh mũi xẹp xuống và dính chặt vào vách ngăn làm bệnh nhân không thở được. Dị dạng này được khắc phục bằng cách đặt thêm khung cho hai cánh mũi bằng rất nhiều chất liệu như sụn, xương tự thân hoặc những chất nhựa tổng hợp.


Dị dạng tháp mũi


- Mũi tẹt: Đầu mũi xẹp xuống và hai cánh mũi bè ra.


- Mũi quắm: Tháp mũi cao, sống mũi hẹp, dài, quặp xuống  như diều hâu.


- Rò sống mũi: Giữa sống mũi có một kén nhỏ vùng xương chính mũi, kén đó ăn thông ra ngoài da bằng một lỗ rò ở gần đầu mũi. Ở giữa có một lông dài. Khi  nắn sống mũi sẽ chảy ra một chất trắng giống như bã đậu. Thỉnh thoảng lỗ rò bị tắc dẫn đến viêm tấy toàn bộ sống mũi. Xử trí bằng phẫu thuật cắt bỏ nang kén và toàn bộ đường rò.


- Mũi xẻ dọc: Dọc theo sống mũi ở đường trung vị có một đường lõm đi từ trán xuống đầu mũi hoặc xuống đến môi trên. Hai mắt cách xa nhau hơn thường lệ. Mặt rộng về bề ngang.


Sứt môi kèm theo hở hàm ếch cũng gây ra dị dạng mũi như thiếu sàn mũi hoặc rách cửa mũi trước. Điều trị bằng phẫu thuật chỉnh hình.


Vẹo vách ngăn, mào vách ngăn, gai vách ngăn mũi


Vách ngăn gồm một cốt cứng bằng xương và sụn còn hai bên được bao phủ bởi niêm mạc mũi. Các thành phần vách ngăn là mảnh đứng của xương sàng, xương lá mía và sụn tứ giác. Bình thường vách ngăn thẳng tương đối. Trong một số trượng hợp vách ngăn vẹo một bên có dạng chữ C, vẹo hai bên dạng chữ S. Nếu trên vách ngăn có một điểm nhô lên giống gai hoa hồng gọi là gai vách ngăn. Một dị hình xuất hiện dưới dạng một nếp gấp dài từ trước ra sau là mào vách ngăn. Biểu hiện của những dị hình vách ngăn là hiện tượng ngạt mũi, nhức đầu, nghe kém. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi gây viêm mũi và viêm mũi xoang dị ứng dễ dẫn đến hen. Điều trị bằng chỉnh hình vách ngăn trở về vị trí tương đối thẳng ban đầu sẽ hết các triệu chứng.


Nhọt mũi


Tiền đình mũi được phủ một lớp da nên bệnh tích vùng này giống với bệnh tích của da.


Nhọt mũi là hiện tượng viêm tuyến bã đậu dưới da do tụ cầu khuẩn. Nhọt tiền đình mũi là một loại bệnh cũng tương đối phổ biến với tỷ lệ đến 2% dân số, chủ yếu là do thói quen dùng tay bẩn để ngoáy mũi làm xước da vùng tiền đình mũi, qua đó vi khuẩn xâm nhập vào lớp dưới da gây bệnh.


Nhọt thường khu trú ở mặt trong cánh mũi đặc biệt thường hay ở nóc tiền đình. Giai đoạn đầu người bệnh thấy ngứa, rát, nóng ở ngay cửa mũi, cứ phải dùng tay đưa vào ngoáy mũi làm cho quá trình viêm tiến triển nhanh. Sau 2-3 ngày xuất hiện cánh mũi sưng, nóng, đỏ, đau. Bệnh nhân không dám ngoáy mũi, chùi mũi vì đau. Bệnh diễn biến 4 - 5 ngày rồi nhọt vỡ và các triệu chứng trên giảm. Nhọt khác có thể xuất hiện ở mũi kia hoặc nhiều nhọt kết hợp lại thành cụm nhọt. Trường hợp này bệnh nhân thường sốt, sưng má và môi trên gây biến chứng viêm tắc tĩnh mạch xoang hang có thể tử vong.


Nhọt tiền đình mũi rất hay tái phát nếu không biết cách phòng tránh.


Xử trí: Dùng thuốc sát khuẩn tại chỗ như bétadine làm sạch vùng tổn thương rồi bôi phủ bằng thuốc mỡ như clorocid H... Nếu nhọt đã căng mềm, hết đỏ, lúc đó dân gian thường gọi là nhọt đã “chín” có thể trích rạch nhọt dẫn lưu mủ, làm sạch bằng ôxy già, rồi bôi thuốc mỡ kháng sinh, kháng viêm. Tránh không cạo thuốc bột rồi rắc lên trên làm cho nhọt không dẫn lưu được mủ sẽ nặng thêm và dễ gây các biến chứng.


(Theo Sức khoẻ và Đời sống)

Mục lục

ĐỌC SÁCH

 

CHẾT

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: "Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi".

Ngài đã nói cùng họ: "Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải".

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: "Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.

Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: "Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm" (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tử nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: "Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J.

Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

Mục lục